Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị nở1. Mở bài: - Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo: Một tác giả luôn trăn trở về cách sống, cách viết và là người luôn nhìn đời bằng con mắt yêu thương. Chí Phèo là tác phẩm được Nam Cao xem và viết bằng tình yêu.
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý chi tiết I. Mở bài - Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo: Một tác giả luôn trăn trở về cách sống, cách viết và là người luôn nhìn đời bằng con mắt yêu thương. Chí Phèo là tác phẩm được Nam Cao xem và viết bằng tình yêu. - Với cái nhìn đầy yêu thương, Nam Cao đã để cho sự lương thiện của mình một lần nữa trở lại với Chí sau khi gặp Thị Nở. II. Thân bài *Khái quát hoàn cảnh Chí Phèo gặp Thị Nở: + Đã từng là một nông dân lương thiện + Sau khi bị Bá Kiến hãm hại, Chí Phèo bị bắt vào tù + Nhà tù Thực dân đã biến Chí từ một anh nông dân 20 tuổi lương thiện trở thành một con người thay đổi cả về nhân cách lẫn tính cách: Làm tay sai cho Bá Kiến → Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo được coi là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” *Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở: + Tình trạng cuộc họp: + Chí Phèo chửi không ai đáp nên “hắn” quay sang nhà Tử Lăng uống rượu + Chí Phèo sung sướng loạng choạng bước ra + Anh gặp cô gái ngủ quên bên dòng sông gần nhà (Thị Nở) + Trong cơn say Chí Phèo đã ngủ với Thị Nở và ngủ ngon lành dưới trăng → Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khiến Chí Phèo có những chuyển biến tâm lý rõ rệt *Diễn biến tâm lý sau khi Chí Phèo gặp Thị Nở: a. Thức dậy – Sau khi gặp Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh ngộ” + Chợt trong căn lều ẩm thấp của Chí thấy “trời đã khuya, ngoài trời hãy còn sáng”. + Bâng Khuâng như bừng tỉnh sau cơn say dài + Thức dậy với vị đắng trong miệng và “buồn vui lẫn lộn” + Cảm giác “sợ rượu” dấu hiệu thức tỉnh rõ nhất + Cảm nhận âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót, tiếng người cười… + Chí Phèo đủ tỉnh táo để nhận ra hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô đơn → Cuộc gặp gỡ với Thị đã khiến Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên b. Niềm vui, hy vọng, ước mơ trở về + Niềm hi vọng về sự trở lại của tuổi trẻ: khao khát một gia đình nhỏ, chồng cày, vợ dệt vải; Nuôi lợn, nếu giàu có thì mua được mấy sào ruộng + Khi nhìn thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo bất ngờ và cảm động “mắt ướt” vì lần đầu tiên có người quan tâm đến mình. + Thấy Thị Nở duyên dáng vừa vui vừa buồn + Tôi muốn tán tỉnh Thị, cảm thấy thật trẻ con + Chí Phèo thèm lương thiện: Tình yêu của Thị Nở khiến hắn nghĩ mình có nhu cầu quay về + Tình yêu dành cho Thị Nở khiến anh hi vọng và ước ao có một gia đình: “Hay là em về ở với anh một nhà cho vui”. → Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa từng có trong đời, mang theo niềm vui, sự hi vọng và khát khao được trở lại làm người lương thiện. c. Thất vọng, đau đớn – Tình yêu bị bà Nở ngăn cấm nên bị Thị Nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn: + “Ngẩn người”, “ngửa mặt”: Thái độ thể hiện sự thấu hiểu, ý thức về hoàn cảnh đáng thương của mình + Hành động: Nắm tay Thị, mong muốn níu kéo hạnh phúc + Anh tìm đến rượu và “úp mặt khóc” → Khát vọng trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng d. Tức giận + Khát vọng trở lại làm người lương thiện không thực hiện được, nỗi uất ức trong Chí càng tăng thêm + Anh quyết định tìm đến nhà thị “đâm chết cả nhà, đâm chết ông Bá Kiến”. + Nhưng “ông không rẽ vào nhà Nở mà đến thẳng nhà Bá Kiến và nói thẳng: nỗi uất ức của ông đã khiến Chí Phèo nhận diện đúng kẻ thù của mình. → Hành động tự hủy hoại bản thân thể hiện sự phẫn uất, tuyệt vọng tột độ III. Kết bài Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Bài tham khảo Mẫu 1 Nam Cao là người hay băn khoăn về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người. Ông thường dễ bất bình trước tình trạng con người bị lăng nhục chỉ vì bị đày đọc vào cảnh nghèo đói cùng đường” (Nguyễn Đăng Mạnh). Với tấm lòng nhân đạo ấy, Nam cao đã khước từ thứ văn chương lãng mạn đế đến với dòng văn học hiện thực. Đây cũng chính là nơi Nam Cao đã kí thác toàn bộ những tâm tư tình cảm, triết lí nhân sinh của mình về cuộc đời, con người. Hàng loạt các tác phẩm đã ra đời nhằm “minh oan”, “chiêu tuyết” cho những con người bị miệt thị một cách bất công: Chí phèo, Một bữa no, Lang Rận, Tư cách mõ... Trong đó Chí Phèo là một tác phẩm tiêu biểu nhất của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám, viết về đề tài người nông dân nghèo và đánh dấu một bước phát triển đáng kế của văn xuôi Việt Nam. Có thể nói nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm là một điển hình nghệ thuật về người nông dân nghèo từ lương thiện sa vào tha hóa rồi lại rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người nhưng luôn cố vẫy vùng để đến với ánh sáng của thiên lương. Chi tiết để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc đó chính là mối tình giữa Chí Phèo và thị Nở. Mối tình có một không hai trong làng văn Việt Nam khiến ta phải đọc rồi suy ngẫm rất nhiều về tình người trong cõi nhân thế. Chí Phèo tự lúc nào đã đi vào trang văn Nam Cao và rồi lại từ trang văn Nam Cao bước ra. Nhân vật điển hình đến mức gấp sách lại ta vẫn thây day dứt về một anh Chí vốn hiền lành lương thiện thế nhưng do sự áp bức ghê gớm cùa bọn chúa đất, thực dân đã khiến anh trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Tưởng chừng Chí Phèo đã bị tha hóa hoàn toàn với một tâm hồn chai đá, những hành động mất lí trí, bị hủy hoại cả về nhân tính lẫn nhân hình, bản chất lương thiện bị che lấp. Nhưng trong trái tim anh vẫn len lỏi một thứ ánh sáng nhiệm mầu, đó chính là ánh sáng của lương tri. Nam Cao là thế đó. Ông không bao giờ để nhân vật của mình chìm trong bóng tối mà luôn để nhân vật trượt trên mặt phẳng nghiêng”, luôn cố vùng vẫy để thoát khỏi cái thế giới của con thú trở về với thế giới con người. Ranh giới ấy rất mong manh và vô cùng khó khăn. Liệu Chí có thể thực hiện được không? Ai sẽ là người giúp anh làm được điều này? Thị Nở ?Chính thị Nở là người hé mở cánh cửa để Chí trở về với ánh sáng của lương tri. Đọc đoạn văn này người đọc vô cùng sảng khoái trước nghệ thuật phân tích nội tâm tâm lí nhân vật rất tinh tế của Nam Cao. Nhưng cái hay của Nam Cao không chỉ là những đoạn văn phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo mà còn là Nam Cao đã xây dựng được một nhân vật hết sức ấn tượng – thị Nở một người ngấn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn nhưng lại có một sức hút, sức hút của tình người đã kéo Chí về với ánh sáng nhân tâm. Nếu ta vẽ một chân dung thj Nở riêng biệt chắc ta phải hoảng hốt bỏ chạy vì cái “dung nhan” ấy. Nhưng nếu ta vẽ hình ảnh của thị với nồi cháo hành nghi ngút khói trên tay đem đến cho Chí khi hắn đang đói cào ruột bởi “trận thổ đêm qua”, khi hắn đang buồn bã cô đơn nhất, đang “thèm khát người” nhất, đang đau khổ tuyệt vọng nhất… thì hình ảnh ấy rung động người đọc biết bao! Đó là sự rung động của nhân tâm rất tự nhiên, rất vô tư không hề “sợ hãi” như những người dân khác ở làng Vũ Đại mỗi khi gặp Chí và cũng không hề tính toán thiệt hơn. Thị không biết tính toán và cũng chẳng cần tính toán. Cái nghĩa tình có ai tính toán bao giờ. Tình cảm của thị thô mộc, nguyên sơ khiến ta cảm động quá! Chính Nam Cao cũng không thể kìm lòng trước vẻ đẹp ấy. Nên ở trang văn này, ta bắt gặp những đoạn miêu tả khung cảnh thiên nhiên rất đỗi thơ mộng. Đó là những ánh sáng dịu hiền của trăng, trăng in cái bóng dáng xệch xạc, méo mó của Chí Phèo trên đường làng, trăng trên vườn chuối, hình ảnh cả hai ngủ say dưới trăng… Và trong khung cảnh ấy ông đã ghép một đôi tâm sự rất xứng đôi: Chí Phèo – thị Nở. Đương nhiên hai con người ấy có ngôn ngữ tâm sự riêng của họ, ta không bàn đến mà chi biết rằng: từ sau cái đêm trăng thanh gặp thị, Chí Phèo đã nhận thầy một thứ thèm khát (không phải thèm rượu) đang sôi sục lên trong anh đó chính là sự mong muốn làm người. Niềm mong muốn ấy được Nam Cao miêu tả một cách tỉ mỉ, tinh tế những thay đổi rất tinh vi từ trong từng tế bào của Chí. Điều đầu tiên nhà văn để cho Chí nhận ra thực tại của mình qua hình ánh cái túp lều. Đó là cái túp lều ngoài bờ sông (thuộc đất lưu không) mà anh đã phải đánh đổi bằng máu, bằng lương tri, làm tay sai cho bá Kiến mà có được ấy. Một cái túp lều ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trần gian mà Chí đang chết dần chết mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thay thế bởi Chí Phèo chưa bao giờ hết say. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy. Tiếp đó, nhà văn để cho Chí Phèo cảm nhận được những thanh âm của cuộc sống: tiếng chim ríu rít, tiếng trò chuyện của các người buôn hàng, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Những âm thanh quen thuộc đó ngày nào chả có. Nhưng đã bảy, tám năm trời nay, từ khi ra khỏi tù, lúc nào Chí cũng chìm trong cơn say thì làm sao Chí nghe được. Cuộc đời của anh là những cơn say dài mênh mông, vô tận, “tràn từ cơn say này sang cơn say khác…” đến mức “…Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say…Hắn làm tấtcả trong lúc người hắn say…”. Thế đấy, đã bao giờ hắn tình để mà nghe những thanh âm của cuộc sống thường nhật chứ. Đây là lần đầu tiên sau một giấc ngủ dài Chí nghe thấy những thanh âm ấy. Những thanh âm của cuộc sống giản dị đã thức kéo thiên lương trong anh, lòng anh bỗng mơ hổ buồn. Chao ôi buồn rồi lại nao nao buồn! Cái buồn đó cứ như một cơn gió lúc thì ổ ạt lúc thì nhẹ nhàng. Bằng bút pháp phân tích nội tâm sâu sắc, tinh tế, Nam Cao đã mô tả quá trình thức tỉnh lương tri của Chí Phèo theo trình tự logic biện chứng. Nhận ra được thực tại, đón nhận được giọt âm thanh của cuộc đời, nhà văn để cho Chí nhớ về quá khứ “hình như có một thời hắn đã ao ước có một gừ đình nho nhỏ, . chồng cuốc mướn cày thuê vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Cái ước mơ chân chính, nhỏ nhoi nhưng sao lại quá khó đối với Chí. Rồi Chí nhìn về hiện tại và tương lai “Chí Phèo hình như đã trông thấy tuổi già của hắn; đói rét, ốm đau và cô độc Chí sợ cô độc nhất. Khi đã sợ cô đơn là lúc con người ta cô đơn nhất và khao khát sự sum vầy. Nhưng Chí vốn là con hoang, không gia đình, không nhà cửa, không họ hàng thân thích. Hắn lại là con quỷ dữ trong mắt người dân ở làng Vũ Đại, không ai chấp nhận hắn chứ đừng nói đến chuyện sum vầy. Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may là thị Nở đến nếu không thì Chí khóc mất. Thị Nở bước vào cùng với bát cháo hành, một hình tượng đẹp nhất, một chi tiết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên Chí được một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay giật cướp” của người khác thì mới có được. Nhưng thứ thị ho Chí không đơn giản chì là bát cháo hành mà còn là một tình yêu thương mộc mạc , là sáng soi rọi vào sâu thẳm tâm hổn Chí làm bừng lên chất người trong anh, làm cho anh khát khao trở về lương thiện, “thèm làm hòa với mọi người”. Nhìn bát cháo hành bốc khói, nhìn nụ cười tình tứ của thị, Chí vừa vui mà vừa buồn, ta thấy được sự ăn năn và hạnh phúc từ trong nụ cười của Chí. Cầm bát cháo húp, mồ hôi đổ ra những giọt to như giọt nước nhưng Chí vẫn cười, vẫn đắm say trong niềm hạnh phúc mà bát cháo hành mang lại. Ôi! Nếu không có bát cháo hành kia liệu ta có thấy được nụ cười của Chí không hay chỉ thấy sự lưu manh hung tàn của một con quỷ dữ? Bát cháo hành là sức mạnh của tình yêu nồng thắm, là biểu tượng của tình người duy nhất ờ làng Vũ Đại. Nếu đặt trong mối tương quan với nhân vật bà Ba vợ bá Kiến – người đàn bà đẹp nhât làng nhưng lại là “con quỷ cái” (bà ta chỉ biết lợi dụng Chí, kêu Chí lên bóp chân, lúc ấy anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì), thì thị Nở rất đẹp. Vẻ đẹp của tình nghĩa nguyên sơ. Quả thật, thị Nở Thị Nở càng xấu, tác phẩm lại càng hay! Đó là một thành công tuyệt vời của Nam Cao khi ông đã xây dựng được một hình tượng Tất thú vị. Trước sự chăm sóc của thị, lòng Chí bỗng trở nên trẻ con. Chí làm nũng với Thị như với mẹ vậy. Chí muốn làm người lương thiện “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao”. Đó là lời kệ, lời miêu tả nội tâm Nam Cao hay đó chính là tiếng lòng thẳm sâu của Chí? Chỉ có điều là nó bị vùi lấy bảy, tám năm trời nay. Hôm nay nó đã trở về. Chính thị Nở đã dánh thức lòng thèm khát lương tri của Chí. Nói cho cùng đây là sự kết duyên của hai tâm hồn đồng điệu. Tuy Thị Nở xấu xí nhưng tâm hồn lại đẹp. Chí Phèo đã bị tha hóa nhưng vẫn còn bản chất lương thiện của người nông dân. Và khi bản chất ấy sống dậy là khi Chí khao khát gia đình” Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Như thế này mãi nghĩa là Chí muốn có cuộc sống bình yên và hạnh phúc không chỉ riêng bên Thị Nở mà còn bên mọi người. Cái tình yêu của Thị và Chí nói đúng nghĩa hơn là vừa cho vừa nhận” Đó là cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có lòng yêu của người chịu ơn”.Mối tình của Chí Phèo Thị Nở quả thực là”đôi lứa xứng đôi”. Nhưng dụng ý của Nam Cao không dừng lại ở đây. Nếu cứ để Chí và Thị sống hạnh phúc bên nhau thì đâu còn là hiện thực phê phán nữa. Mối tình định mệnh của Chí chỉ diễn ra chóng vánh trong năm ngày. Đó là năm ngàu hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Chí, là năm ngày Chí được sống trong sự chăm sóc bởi tay một người đàn bà. Và khi hắn đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời rồi, hắn mới cảm nhận được mùi thơm của cháo hành” trời ơi cháo mới thơm làm sao”Mùi vị cháo thơm hay đây lòa vị ngọt của cuộc đời ? Hay là tấm lòng săn sóc của Thị Nở? Hình ảnh thị Nở cũng trở nên đẹp đẽ từ việc chăm sóc Chí Phèo bằng bát cháo hành. Hình ảnh ấy gợi cho ta cái không khí đầm ấm của gia đình nông thôn xưa, thế nhưng họ lại vấp phải rào cản lớn nhất : ” Bà cô thị Nở”” Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo” Bà đại diện cho định kiến khắt khe cổ hủ của xã hội phong kiến đã làm đầy tràn li bi kịch của Chí, đẩy Chí Phèo đến tận cùng của tuyệt vọng, cắt đứt cái cầu nối cuối cùng không cho Chí hòa nhạp với cộng đồng . Khi bị cự tuyệt, hắn bỗng nhiên ngẩn người, Hắn sửng sốt, đứng lên gọi lại”Hắn đuối theo thị”. Hoàn toàn vô vọng Chí cố uống rượu đế say, để tìm quên đau khổ. Nhưng “càng uống lại càng tỉnh”; “hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoảng thoảng thấy hơi cháo hành, hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Nam Cao đã thật tinh tế thật sâu sắc khi miêu tả những biến đổi tâm trạng của nhân vật. Từ tâm trạng ấy, ta thấy những khát khao chân chính của Chí. Nhưng khi lương tri đã trở về lại là lúc bi kịch ập đến. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nếu ta đánh giá cao tài năng của Nam Cao trong nghệ thuật miêu tả, phân tích nội tâm nhân vật và đặc biệt là nghệ thuật thắt nút – tháo nút – thắt nút trong tác phẩm thì chính đoạn văn miêu tả mối tình Chí – thị là sự tháo nút của nhà văn nhưng lại là để lần thắt nút cuối cùng giải quyết toàn bộ xung đột bằng hành động quyết liệt của Chí ở cuối tác phẩm. Đó là hành động đi đòi lương thiện của Chí. Trong tận cùng đớn đau tuyệt vọng, trong cơn khát thèm lương thiện, mơ ước gia đình, Chí đã tìm đến nhà bá Kiến (kẻ đã cướp đi đời lương thiện của Chí) không phải đế rạch mặt ăn vạ hay xin đi tù đế có chỗ trú thân như mọi lần mà là để đòi lương‘ thiện : “Tao muốn làm người lương thiện”. Thế nhưng, Chí không còn đường nào khác, khi anh nhận ra được một bi kịch: “Không được! Ai cho tao lương thiện, làm thế nào mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa . Biết không ?”. Chí nói rất dõng dạc câu nói đòi quyên làm người và đó cũng Bà những tiếng kêu tuyệt vọng của Chí. Bởi trong cái xã hội “Chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) ấy, quyền sống chính đáng của con người không được chấp nhận. Vậy nên chỉ có một cách: giết bá Kiến và tự sát. Hành động của Chí Phèo như là một quy luật tất yếu . Nó không đơn giản là hành động trả thù cá nhân mà là hành động trả thù giai cấp. Bị đè nén, bị áp bức nhiều thì họ phải đứng lên chống lại. Nhưng hiện thực lúc bấy giờ, giết bá Kiến rồi Chí Phèo cũng chỉ có một con đường chết. Đó cũng chính là kết cục chung của các tác phẩm hiện thực phê phán: nhân vật hoặc lâm vào ngõ cụt không lối thoát , hoặc là chết. Cái chết của Chí để lại thương tâm cho người đọc. Không ít người lên án, cho rằng Nam Cao quá nhẫn tâm hoặc gắn cái hạn chế cho nhà văn. Nhung không phải thế, yêu thương sâu sắc người nông dân, gắn bó máu thịt với cuộc sống của họ.Nam Cao chắc sẽ rất đau trước cái chết của Chí. Nhưng thời đại ấy, không thể viết khác được. Đó là hạn chế của thời đại chứ không phải của nhà văn. Tác phẩm khép lại là hình ảnh thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và đâu đó hiện ra một cái lò gạch bỏ hoang (nơi Chí Phèo ra đời). Hình ảnh ấy tạo cho tác phẩm kết cấu vòng tròn, đầu cuối tương ứng đổng thời cũng gọi ra cái vòng luẩn quẩn tối tăm của người nông dân nghèo. Hiện thực xã hội cũng lại phơi bày ,Lại một quy luật “tre già măng mọc”: Chí Phèo chết sẽ có một Chí Phèo con ra đời, Bá Kiên chết rổi nhưng còn trăm ngàn bá Kiến khác… Biết khi nào người nông dân mới thoát khỏi bốì cảnh ây? Đó là trăn trớ của nhà văn, là sự day dứt của người đọc. Trang văn Nam Cao bề ngoài lạnh lùng nhưng bên trong chan chứa tấm lòng nhân hậu, nhân đạo, nhân văn cao cả là vậy. Tóm lại đoạn văn miêu tả tâm trạng, sự đổi thay, những khát khao và cả cái bi kịch dẫn đên thảm kịch của Chí là đoạn văn thành công nhất của Nam Cao. Có thể coi đây là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí. Là đoạn văn thế hiện lòng yêu thương con người và cả lòng tin tưởng vào “thiện căn” ở con người Nam Cao. Cũng từ đó mà tác phẩm thêm sức sống kì diệu, tô đậm hơn giá trị hiện thực và làm ngời sáng giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đến đây ta có thể mạnh dạn mà đồng tình với một ý kiến của ai đó khi nói “Nếu không viết Chí Phèo, Nam Cao đã để lại cho văn học Việt Nam một khoảng trống lớn”. Đúng vậy qua Chí Phèo, Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực phê phán nói riêng và văn học Việt Nam nói chung một tiếng nói nhân đạo, một nhân vật mang tính điển hình cho người nông dân trước Cách mạng bị tha hóa, lưu manh hóa nhưng luôn dám đấu tranh để chống lại bất công. Nỗ lực không ngừng, cái tâm – cái tài của Nam Cao đã được chi nhận xứng đáng: “Trong văn hóa Việt Nam, với ngòi bút Nam Cao ta bắt đầu thấy thật có sự sống, thật có con người trong truyện ngắn” (Nguyên Hồng). Bài tham khảo Mẫu 2 Phương pháp giải: Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ yếu ở hai mảng đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo, ông đặc biệt khắc họa rõ nét diễn biến tâm trạng của nhân vật này từ sau khi gặp Thị Nở. Đây là một thành công đáng kể của tác giả trong truyện ngắn này. Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám. Ban đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí Phèo”. Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thuở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống bơ vơ bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù. Khi ra tù, Chí thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá Kiến, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một cô gái xấu “ma chê quỷ hờn”. Bát cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc của Thị đã thức tỉnh phần người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao ước được trở lại làm người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng bà cô Thị ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền làm người. Chí bèn xách dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn. Trước cuộc gặp gỡ đầy tình cờ với thị Nở trong đêm trăng ở vườn chuối cạnh bờ sông, Chí Phèo là một “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Hắn triền miên trong những cơn say dài bất tận và sống trong tình trạng vô thức. Sau cái đêm định mệnh ấy, cuộc đời Chí Phèo tưởng như được lật sang một trang mới. Sáng sớm hôm sau, hắn tỉnh dậy. Hắn bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một con người. Lần đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí Phèo nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn : “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, tiếng trò chuyện của những người đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ thuở xa xưa : “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Quá khứ tuy nghèo khổ ấy nay với Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực tại giờ đây của hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất là cô độc. Một kẻ chỉ biết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như, bản chất người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy. Hắn đang nghĩ vu vơ thì thị Nở đến, mang theo một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Đầu tiên, Chí Phèo “rất ngạc nhiên”. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy “mắt hình như ươn ướt”. Con quỷ dữ Chí Phèo đã biết khóc. Hắn cảm động đến như vậy là bởi đây là lần đầu tiên hắn được người ta cho, xưa nay, muốn có cái gì, hắn phải giật cướp và dọa nạt. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà lòng “bâng khuâng”, rồi hắn nhìn thị Nở đang cười toe toét mà cảm thấy thị “có duyên”. Có cái gì đó đang trỗi dậy trong lòng Chí Phèo, phải chăng đó là tình yêu ? Có thế thì mới nhìn một người đàn bà “ma chê quỷ hờn” thành ra “có duyên” chứ ! Rồi thì hắn thấy “vừa vui vừa buồn” và “một cái gì nữa giống như là ăn năn”. Chí vui bởi vẫn đang còn một người quan tâm đến hắn. Chí buồn và ăn năn bởi tội ác mình gây ra quá nhiều, con đường trở về làm một người bình thường của hắn có lẽ là sẽ lắm chông gai. Đưa bát cháo lên miệng, Chí Phèo thấy cháo “mới thơm làm sao” và húp một húp, Chí cảm thấy “cháo hành ăn rất ngon”. Cháo hành vốn là thứ quê mùa, không phải cao lương mĩ vị gì, lại được nấu bởi bàn tay của một người “dở hơi” thì chắc là dở lắm; thế mà với Chí Phèo thì nó thật ngon. Bát cháo từ tay người đàn bà là thị Nở ấy làm Chí Phèo nhớ về bà Ba vợ Bá Kiến. Chí Phèo thừa hiểu, “cái con quỷ cái” ấy chỉ lợi dụng hắn chứ yêu đương gì. Hắn chưa bao giờ được một người đàn bà nào yêu cả. Bởi vậy, bát cháo hành của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Ngồi ăn cháo hành cạnh thị Nở, hắn thấy “lòng thành trẻ con”, “hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”. Ngòi bút Nam Cao thật sắc sảo và tràn đầy tình thương khi miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng của Chí. Ông nhận ra phần người không bao giờ mất trong hình hài con quỷ dữ Chí Phèo. Phần người ấy đã hoàn toàn trở về với Chí và khiến hắn “thèm lương thiện”, hắn muốn “làm hòa” với mọi người biết bao. Hắn hi vọng thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Hắn hi vọng tràn trề “họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Niềm hi vọng được làm người lương thiện làm Chí Phèo thấy “lòng rất vui”. Chí thấy mình và thị Nở sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi, và quyết định lấy thị. Năm ngày sau đó là năm ngày hạnh phúc nhất cuộc đời Chí Phèo. Hắn và thị Nở sống với nhau như vợ chồng. Hắn đã không còn kinh rượu nữa nhưng cố uống cho thật ít để tỉnh táo. Bây giờ hắn “say” thị Nở chứ không còn say rượu. Bây giờ, hắn là con người chứ không còn là “con quỷ”. Thế nhưng, năm ngày ấy thật ngắn ngủi. Đến ngày thứ sáu thì thị Nở nhớ ra thị đang còn một bà cô đi làm ăn xa sẽ về trong ngày hôm ấy. Thị phải dừng yêu để về nhà hỏi cô thị đã. Thị trở về nhà rồi quay lại nhà Chí Phèo với cơn tức giận sau những lời xỉa xói đay nghiến của bà cô. Thị tới và “trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô”. Nghe những lời ấy, Chí Phèo “nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu”. Đầu óc bị tê liệt bấy lâu của hắn phải nghĩ ngợi một tí rồi mới “hiểu” được những lời của bà cô thị Nở. Hắn hiểu một cách sâu sắc về những lời ấy. Hắn hiểu rằng không còn ai coi hắn là con người nữa. Một người cuối cùng mà hắn hi vọng nhất cũng đã từ chối hắn. Hắn hiểu ra rằng người ta không chấp nhận hắn trở lại làm người lương thiện. Đó là bi kịch đau đớn của cuộc đời hắn : bị cự tuyệt quyền làm người. Nhận ra bi kịch thê thảm ấy, Chí Phèo lại uống rượu. Nhưng bây giờ, càng uống, hắn “càng tỉnh ra” và lại càng “buồn” hơn. Hắn cứ thấy hơi cháo hành thoang thoảng đâu đây. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức”. Thương thay, hắn sinh ra là người mà giờ đây muốn làm người cũng không thể được. Hắn cứ thế uống, uống cho đến say mềm đi. Rồi hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng. Trong cơn say, đầu óc của hắn vẫn không thể nào quên được bi kịch đau đớn của đời mình, và càng không thể nào quên được kẻ đã đẩy hắn vào bi kịch ấy. Không ai khác ngoài Bá Kiến. Bởi vậy mà hắn không đến nhà “con đĩ Nở” như dự định ban đầu mà đi thẳng đến nhà lão bá. Đến đấy, hắn cất tiếng đòi lương thiện thống thiết : “Tao muốn làm người lương thiện” nhưng cũng đồng thời hiểu rằng “tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Những câu nói cuối cùng của Chí nghe sao thật xót xa, cay đắng. hắn chỉ còn một cách nữa, cách để được nhẹ nhàng, thanh thản, đó là ra đi cùng với bản chất người của mình. Nhưng trước khi ra đi, hắn phải trả thù, phải giết kẻ đã khiến hắn không được làm người nữa. Hắn hành động dứt khoát, quyết liệt : giết bá Kiến và tự vẫn. Chí Phèo tự vẫn bởi hắn có sống tiếp cũng không thể được làm người lương thiện nữa. Cái chết đau đớn, tức tưởi của Chí Phèo vừa là tiếng nói tố cáo tội ác của tầng lớp thống trị phong kiến vừa là lời khẳng định, tin tưởng vào bản chất lương thiện không bao giờ mất đi trong những người nông dân cùng khổ đáng thương. “Chí Phèo” là minh chứng tiêu biểu nhất cho tài năng truyện ngắn Nam Cao. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào “bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà bắt đầu truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người đọc, vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực tiếp cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, có đoạn là lời người kể chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào nhân vật, làm cho đoạn văn như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến người đọc thực sự khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình người của Nam Cao cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại. Tóm lại, truyện ngắn “Chí Phèo” đã miêu tả sinh động diễn biến tâm trạng của Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở. Qua đó, nhà văn thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh bi đát của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời khẳng định và tin tưởng vào bản chất lương thiện tốt đẹp của họ. Đó cũng chính là tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao trong dòng văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Truyện ngắn này đã đưa tên tuổi Nam Cao vào hàng những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Bài tham khảo Mẫu 3 Trong vườn văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước 1945, Nam Cao là đóa hoa nở muộn. Trước Nam Cao, ta đã có những Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,... Tuy là cây bút đến sau, nhưng Nam Cao vẫn kịp có cho mình những tác phẩm xuất sắc, phản ánh rõ hiện thực xã hội đương thời, lên án, vạch trần những cái xấu xa, những cái lầm than trong những kiếp người. Tiêu biểu có thể kể đến truyện ngắn "Chí Phèo" - tác phẩm làm nên tên tuổi nhà văn. Tác phẩm viết về bi kịch của người nông dân Việt Nam và đánh dấu một bước phát triển đáng kể của văn xuôi Việt Nam. Trong đó, chi tiết để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng người đọc có lẽ là diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở. Người nông dân Việt Nam với bi kịch tha hóa bước vào trang sách Nam Cao, trở thành Chí Phèo, rồi Chí Phèo lại từ trang văn Nam Cao bước ra, phản ánh biết bao số phận lầm than ngoài đời thực. Với bút pháp xây dựng nhân vật điển hình, Nam Cao khiến cho nhân vật sống động tới nỗi chỉ cần nghe tới tên Chí Phèo, trong đầu ta lập tức hiện ra hình ảnh anh nông dân lương thiện bị áp bức, dồn ép thành một thằng lưu manh và sau cùng chết trong tức tưởi. Lũ chúa đất và nhà tù thực dân biến Chí từ một chàng thanh niên mồ côi ngờ nghệch phải đi làm thuê ở đợ kiếm cái ăn thành "con quỷ dữ" của làng Vũ Đại. Trông thấy Chí trong hình hài xăm trổ, gương mặt dọc ngang đầy sẹo trong những lần rạch mặt ăn vạ, không tiếc làm chuyện ác, ta ngỡ như Chí Phèo đã tha hóa hoàn toàn, đã biến đổi, dị dạng cả nhân hình lẫn nhân tính, bản chất lương thiện dường như đã bị che lấp hoàn toàn. Thế rồi Nam Cao để Thị Nở đến bên Chí, mở ra cánh cửa lương tri đã bị tội ác của lũ cường hào ác bá đóng vào bấy lâu. Tình cảm chân thành, hành động ngờ nghệch của Thị thức tỉnh Chí, thức tỉnh con người vốn ngủ sâu trong hình hài "con quỷ dữ". Nam Cao là thế đó. Ông không bao giờ để nhân vật của mình lặng yên chìm trong bóng tối mà luôn vùng vẫy, đấu tranh cho những điều tốt đẹp. Thị Nở - người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, lại ngờ nghệch như đứa trẻ, ấy vậy mà sống tình cảm. Bởi vì ngờ nghệch, Thị chẳng sợ Chí như người dân làng này vốn sợ. Thị nhìn hắn với cái nhìn dành cho con người, chứ không phải nhìn một con quỷ như người ta vẫn hay nhìn hắn. Nam Cao đã đặt vào trong hình hài xấu xí của thị một vẻ đẹp tâm hồn sâu kín. Hình ảnh của thị với bát cháo hành nghi ngút khói trên tay đem đến cho Chí khi hắn đang đói cào ruột bởi “trận thổ đêm qua”, khi hắn đang buồn bã cô đơn nhất, đang “thèm khát người” nhất, đang đau khổ tuyệt vọng nhất… hình ảnh ấy rung động người đọc biết bao! Đó là sự rung động của nhân tâm rất tự nhiên, rất vô tư không hề “sợ hãi” như những người dân khác ở làng Vũ Đại mỗi khi gặp Chí và cũng không hề tính toán thiệt hơn. Thị không biết tính toán và cũng chẳng cần tính toán. Cái nghĩa tình có ai tính toán bao giờ. Tình cảm của thị thô mộc, nguyên sơ khiến ta cảm động quá! Tỉnh dậy sau đêm say sưa gặp Thị Nở, điều đầu tiên Nam Cao để cho Chí nhận ra ấy là thực tại của bản thân mình. Hắn sống trong một túp lều, túp lều mà hắn đã phải đánh đổi bằng máu, bằng lương tri, làm tay sai cho bá Kiến mà có được. Một túp lều ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trần gian mà Chí đang chết dần chết mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi Chí Phèo chưa bao giờ hết say. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy. Hắn bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một con người. Lần đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí Phèo nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn : “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, tiếng trò chuyện của những người đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ thuở xa xưa : “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Quá khứ tuy nghèo khổ ấy nay với Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực tại giờ đây của hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất là cô độc. Một kẻ chỉ biết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như, bản chất người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy. Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may là Thị Nở đến nếu không thì Chí khóc mất. Thị Nở bước vào cùng với bát cháo hành, một hình tượng đẹp nhất, một chi tiết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên Chí được một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay giật cướp” của người khác thì mới có được. Bát cháo hành ấy là đại diện cho tình cảm mộc mạc của Thị Nở dành cho Chí, đánh thức trọn vẹn trong Chí lương tri và lương tâm của một con người. Bát cháo hành chan chứa tình người, thứ tình cảm rất thật, hồn nhiên, không vụ lợi. Nó chỉ đơn giản là bởi Thị thấy Chí bị “thổ một trận nhọc” mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghỉ ốm như thế thì chỉ có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang. Bát cháo hành ấy là vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo hành là tình người duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo”. Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi vọng hoàn lương: Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về với cuộc đời lương thiện. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện. Lúc này, Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh, hắn từ "con quỷ dữ" trở lại là người: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người". Mà đã là người, ai chẳng mưu cầu hạnh phúc? Hắn làm nũng với Thị Nở như đứa trẻ con làm nũng mẹ. Hắn ao ước một mái ấm gia đình, hắn thực sự mong muốn xây dựng gia đình với Thị Nở: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?" Chí Phèo và Thị Nở, hai mảnh đời bất hạnh gặp nhau rồi yêu nhau. Họ mở ra con đường giải thoát cho nhau, "làm ơn" và "chịu ơn" lẫn nhau. Họ sống với nhau như vợ chồng. Nhưng chỉ được năm ngày. Năm ngày ấy có lẽ là năm ngày hạnh phúc nhất cuộc đời Chí. Sau năm ngày ấy, Thị Nở nhớ ra mình còn một người cô ở đời. Thị phải "đừng yêu để hỏi cô thị đã". Nghiệt ngã thay! Chí đã thức tỉnh lương tri, đã trở lại là người, khao khát sống cuộc đời lương thiện, nhưng điều ấy không ai biết. Bà cô Thị Nở lại càng không biết. Bà nghe cháu gái nhắc đến Chí Phèo thì xỉa xói ngay vào mặt cháu gái rằng lấy ai không lấy lại đi lấy thằng Chí Phèo, một thằng "không cha, suốt ngày chỉ có một việc là rạch mặt ăn vạ". Thị Nở uất lắm. Bao nhiêu uất giận ấy Thị trút cả vào Chí, từ chối sự níu kéo của Chí, rồi vùng vằng bỏ về. Những lời nói và hành động của Thị Nở như cái tát vào mặt Chí Phèo, khiến hắn nhận ra bi kịch đời mình. Hắn không còn cái cơ hội được trở lại làm con người nữa. Người ta xem hắn là "con quỷ", hắn mãi mãi là thằng Chí Phèo gieo rắc bất hạnh lên cuộc sống của bao nhiêu con người ở làng Vũ Đại. Người duy nhất xem hắn là người, gần gũi với hắn, cũng quyết tuyệt từ chối hắn. Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ thấy “hơi cháo hành”. Lương tri và lương tâm đã thức tỉnh không cho phép hắn trở lại làm một con quỷ. Hắn tìm say để lại sống cuộc đời khi trước, nhưng "hơi cháo hành", hay tiếng gọi của tình người, của lương tri cứ ám ảnh lấy hắn, không cho phép hắn bỏ quên con người đã thức tỉnh. Hắn đi đòi lương thiện. Nhưng chao ôi, còn ai trả lại cho hắn được sự lương thiện ngày xưa nữa? Nhân dạng hắn đã đánh mất từ lâu rồi: những vết sẹo trên mặt đã khiến gương mặt hắn không rõ hình hài là mặt người hay mặt thú. Người ta ghê sợ hắn. Câu hỏi "Ai cho tao lương thiện?" vang lên trong tức tưởi, phản ánh bước đường cùng của cuộc đời một người nông dân bị tha hóa. Sự bế tắc và bi kịch tột cùng ấy đưa hắn đến nhà Bá Kiến, và sau cùng, đưa hắn đến cái chết đầy đau đớn. Truyện ngắn khép lại bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong đầu thấp thoáng hiện ra cái lò gạch cũ. Hình ảnh ấy tạo cho tác phẩm kết cấu vòng tròn, đầu cuối tương ứng đổng thời cũng gọi ra cái vòng luẩn quẩn tối tăm của người nông dân nghèo. Hiện thực xã hội đã được phơi bày trọn vẹn trong tác phẩm. Thông qua diễn biến tâm lý của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, ta thấy được khả năng xây dựng tâm lý nhân vật tài tình của Nam Cao. Nhà văn thể hiện lòng nhân ái, lòng tin vào trái tim lương thiện của con người trước hiện thực éo le. Qua Chí Phèo, Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực phê phán nói riêng và văn học Việt Nam nói chung một tiếng nói nhân đạo, một nhân vật mang tính điển hình cho người nông dân trước Cách mạng bị bần cùng hóa, lưu manh hóa đến tha hóa nhưng luôn dám đấu tranh để chống lại bất công. Nỗ lực không ngừng, cái tâm - cái tài của Nam Cao đã được chi nhận xứng đáng: “Trong văn hóa Việt Nam, với ngòi bút Nam Cao ta bắt đầu thấy thật có sự sống, thật có con người trong truyện ngắn” (Nguyên Hồng).
|