Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam CaoI. Mở bài - Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo: Đại diện cho khuynh hướng hiện thực. Chí Phèo là một đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này - Bằng ngòi bút hiện thực, Nam Cao đã khắc họa thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý chi tiết I. Mở bài - Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo: Đại diện cho khuynh hướng hiện thực. Chí Phèo là một đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này - Bằng ngòi bút hiện thực, Nam Cao đã khắc họa thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo II. Thân bài 1. Thế nào là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người? - Bi kịch: Sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng con người - Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng quay trở lại làm một con người, khát khao được đối xử như một con người nhưng không được của Chí Phèo 2. Bi kịch được thể hiện ngay trong tiếng chửi của Chí đầu truyện - “Hắn vừa đi vừa chửi..”.: sự xuất hiện tự nhiên - Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên: + Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi + Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường → Chí Phèo mong muốn được giao cảm với cuộc đời, nhưng không ai đáp lại, không ai coi hắn như một con người 3. Bi kịch bị khước từ “quyền làm người” ngay từ khi sinh ra - Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không được đối xử như một con người : + Không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dúi cũng không có + Bị bỏ rơi tại lò gạch cũ giữa cánh đồng mùa đông + Tuổi thơ sống trong bất hạnh + Đã từng ước mơ lương thiện nhưng xã hội bóp chết ước mơ lương thiện ấy → Chí Phèo đáng thương đã không được đối xử như một đứa trẻ bình thường ngay từ khi mới sinh ra đã bị chối bỏ 4. Bi kịch tha hóa là cơ sở dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người - Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù: + Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn. + Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” - Hậu quả của những ngày ở tù: + Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” ⇒ Chí Phèo đánh mất nhân hình. + Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính. - Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến → Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực 5. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người - Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội . - Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo: + Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở + Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát. - Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí: + Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống. + Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người → Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng III. Kết bài - Khái quát lại những nét đặc sắc nghệ thuật góp phần thể hiện thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Khẳng định đây là bi kịch chung cho những người nông dân trong xã hội cũ Bài tham khảo Mẫu 1 Nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là kiệt tác của dòng văn học hiện thực Việt Nam. Chí Phèo đại diện cho những người nông dân cùng cực bị đẩy đến đáy cùng của xã hội. Những tưởng cuộc đời Chí sẽ chìm trong đêm tối nhưng sau khi gặp thị Nở Chí đã hồi sinh kiếp sống làm người. tuy nhiên éo le thay bởi định kiến của bà cô thị cũng là của toàn xã hội đã gây bi kịch bị cự tuyệt làm người cho Chí thật đau đớn, xót xa để lại cho độc giả nhiều ám ảnh bởi tiếng kêu “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” Nam Cao thật tài tình khi đã khắc họa được tâm phức tạp của nhân vật khi bị thị Nở từ chối với những diễn biến tinh vi nhất bằng độc thoại bên trong, hành động bên ngoài và lời kể lời bình của tác giả…, đây là đoạn văn của đỉnh cao cho sự cởi nút thắt câu chuyện cũng là nút thắt trong cuộc đời nhân vật để cho hắn một lối thoát tất yếu cho bi kịch bị cự tuyệt làm người. Năm ngày bên thị thật bình yên hạnh phúc tưởng rằng cuộc đời Chí được hoàn lương từ giây phút ấy nhưng thị lại là một người đàn bà dở hơi, ngẩn ngơ đem câu chuyện tình của mình xin ý kiến bà cô một người mang trong mình những định kiến xã hội không tốt về Chí. Bà cô già vẫn chưa có chồng thấy thị hỏi thì bật cười tưởng đùa nhưng khi biết tất cả sự thật lại hoảng hốt và cảm thấy nhục cho ông cha nhà bà, bà chua xót, uất ức cho bản thân đã dùng những lời lẽ cay độc xỉa xói vào mặt thị. “Bà gào lên như con mẹ dại”, “Có lấy thì lấy ai chứ, đàn ông chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu lấy một thằng không cha không mẹ. Ai lại lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ăn vạ”. Thị nổi giận đùng đùng sang nhà nhân ngãi chút tất thảy những lời lẽ cay độc ấy vào mặt hắn rồi “ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về”. Vậy là con đường hoàn lương của Chí vừa được hé mở đã nhanh chóng đóng sầm lại bởi định kiến xã hội tàn bạo không cho Chí cơ hội để trở lại làm người lương thiện, chân chính. Chí đau đớn và thất vọng khi bị thị Nở chối từ. Hắn cứ ngồi ngẩn người, ngẩn mặt không nói gì. Điều đó cho thấy Chí đã hiểu về thói đời và cảnh ngộ của mình. Hắn ngửi thấy mùi cháo hành đây là một chi tiết độc đáo được lặp lại bởi đó là dư vị tình thương ít ỏi mà Chí đang rất cần. Tại sao nó lại chỉ xuất hiện “Thoáng một cái” trong lúc này như để trêu ngươi, chọc tức Chí. Hắn muốn níu giữ hương vị ấy, níu giữ tình người còn sót lại dù chỉ chút ít nên khi thị quay đi thì “Hắn sửng sốt đứng lên gọi lại… hắn đuổi theo thị nắm lấy tay” nhưng lại bị “Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân” nỗ lực níu giữ đến cuối cùng cho con đường hoàn lương bởi chỉ có thị mới có thể mở đường cho hắn, thị là cầu nối cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hi vọng nhưng một lần nữa hắn lại bị hắn hủi, ruồng bỏ phũ phàng, người đàn bà cho hắn tình thương và hạnh phúc, đặt trọn niềm tin và hi vọng nay cũng “rướn cái môi vĩ đại mà ném vào mặt hắn bao lời chửi mắng”. Như thế Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn, hắn đã bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Từ tận cùng của nỗi đau là sự phẫn uất và tuyệt vọng. Điều đó được thể hiện rõ trong suy nghĩ và hành động cuối cùng của nhân vật. Cũng như bao lần trước “đã lăn ra thì hắn phải kêu” phải uống, phải đập đầu rạch mặt ăn vạ nhưng “tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn!” hắn không ngửi thấy mùi rượu sặc sụa nhưng lại “thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Hơi cháo hành tình người lần thứ ba được nhắc đến làm cho lương tri Chí trỗi dậy mạnh mẽ để rồi “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Đã bao lâu rồi hắn mới có được cử chỉ và giọt nước mắt của con người. Từ hi vọng đến tuyệt vọng, khởi đầu là giọt nước mắt cảm động hạnh phúc khi bưng bát cháo hành trên tay và kết thúc cũng là giọt nước mắt đau khổ khi bị thị Nở bỏ rơi. Cuộc đời thật nhẫn tâm khi cho người ta hy vọng rồi lại ném vào trong tuyệt vọng, cuộc đời cũng thật tàn ác khi mở đường cho Chí hoàn lương làm người tử tế rồi lại biến Chí trở thành con quỷ tàn ác nhất ngay cả với chính mình. Nỗi tuyệt vọng dâng đến đỉnh điểm tột cùng của căm uất với hành động kết thúc “Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng”. Cũng như mọi lần hắn vừa đi vừa chửi và dọa giết “nó”. Nó trong suy nghĩ ban đầu của Chí chính là thị “Hắn phải tự đến nhà con đĩ Nở kia. Để đam chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó” nhưng không biết vì điều gì mà hắn lại xông xông vào nhà cụ Bá. Dường như lúc này Chí không còn là một tên say rượu mà hắn đang rất tỉnh táo, chỉ có khi tỉnh táo thật sự mới có thể cảm nhận được nỗi đau đến vô cùng và hiểu rõ tội ác của kẻ thù đã hủy hoại đời hắn. Chí Phèo đã “trợn mắt chỉ tay” vào mặt Bá Kiến vênh vênh cái mặt kiêu ngạo mà khẳng định: “Tao đã bảo là tao không đòi tiền” mà dõng dạc đòi làm người lương thiện, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Tiếng kêu thống thiết trước khi giết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình đòi quyền làm người, đòi được sống trở lại ngay cả khi đang khi đang thở ở đoạn cuối tác phẩm: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ còn một cách...biết không! Chỉ còn một cách là…cái này biết không!” Lời nói của Chí đanh thép đầy căm uất và phẫn nộ, tiếng thét lên từ bi kịch của nỗi đau và hình ảnh hắn giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi để lại ám ảnh cho người đọc bởi điều đó thể hiện cho một chân lí giọt nước đã tràn ly, tức nước thì vỡ bờ đó là điều tất yếu. Cái chết của Chí Phèo là hành động minh chứng cho sự khủng hoảng và bế tắc, tuyệt vọng không lối thoát, nó là kết quả cho sự hồi sinh và thức tỉnh của Chí, đó cũng là con đường duy nhất để Chí được làm người lương thiện bởi chỉ có kết thúc được những tháng ngày của quỷ dữ mới có thể bắt đầu để sống đúng nghĩa cuộc đời mình. Chí chết về ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí không thể chấp nhận kiếp sống của thú hoang đành đóng cánh cửa cuộc đời này lại để mở ra cuộc sống mới ở kiếp làm người sau. Hoàn cảnh của Chí Phèo phản ánh một hiện thực mâu thuẫn, xung đột gay gắt của người nông dân với bọn địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Cái chết của Chí cảnh cáo cho xã hội phong kiến nửa thuộc địa nếu không thay đổi sẽ không biết còn có bao nhiêu người như Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo rồi còn những Chí Phèo còn bản sao của Chí Phèo bố chưa ra đời. Nam Cao cũng chỉ ra một chân lí khách quan trong xã hội mà Karl Marx từng nói: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Nam Cao với tấm lòng của nhà nhân đạo chủ nghĩa đã lựa cho Chí Phèo một lối thoát cho con đường hoàn lương hợp lí nhất. Chí Phèo không những được kể lại bằng ngôn ngữ của tác giả mà còn cả ngôn ngữ của các nhân vật khác như thị Nở, bà cô thị hay dân làng Vũ Đại. Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật được nhà văn tái bút thành công. Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Nam Cao muốn đặt câu hỏi lớn về quyền sống và quyền làm người: làm thế nào để con người sống đúng nghĩa làm người trong một xã hội phi nhân tính chỉ toàn sự chà đạp, lừa dối và bất công như thế? Câu hỏi ấy vẫn còn là những suy tư trăn trở trong lòng độc giả mà bấy lâu nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Liệu rằng có một kết thúc khác cho truyện ngắn “Chí Phèo” được không? Như vậy bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo được Nam Cao thể hiện rất sinh động, cuốn hút để lại người đời nhiều suy ngẫm. Cái chết của Chí và tiếng thét đòi làm người lương thiện sẽ ám ảnh mãi trong lòng độc giả bởi Chí Phèo là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp nông dân với mâu thuẫn giai cấp trong lòng xã hội cũ, nhà văn đã phản ánh sự cùng cực không lối thoát của họ bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo và sự cảm thông xót thương chân thành. Bài tham khảo Mẫu 2 Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo là 1 kiệt tác trong văn xuôi VN hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo. Chí Phèo là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà k đc làm người. Câu chuyện có nhiều bi kịch, nhưng đặc biệt, trong đó quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Chí Phèo, nguyên là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng. Chí gần như sống trong vô thức, bị xã hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để quên đi quyền làm người, say để làm những việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, doạ nạt… của bao người dân lương thiện. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời. Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Ông đã soi rọi ánh sáng của ty thương vào tận đáy tâm hồn đen tối của con quỷ dữ làng Vũ Đại. Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa lỡ thì. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ngẫu nhiên ấy, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt đc khơi dậy. Chút ty thương mộc mạc, tự nhiên cộng với sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người Chí. Chính nhờ cuộc gặp gỡ đó, đã thức tỉnh phần người trong Chí, giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỷ dữ để sống lại làm người, khao khát hoàn lương, lương thiện. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật. Tỉnh rượu, Chí thấy lòng chợt bâng khuâng ”mơ hồ buồn”. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy, chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy, vì hôm nay Chí đã hết say. Phải chăng, những âm thanh ấy chính là tiếng gọi náo nức, thiết tha, tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đã vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí… Sau đó Chí tỉnh ngộ, nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn hết, cái ước mơ bình dị ngày nào ”có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…” bỗng dưng trở lại với Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tình cảm và nhận thức. Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”. Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, Chí đã tỉnh táo và triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của 1 con người, Chí đang thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người. Ngòi bút Nam Cao ở đây thật ấm áp, thể hiện từng biểu hiện của sự thức tỉnh ở Chí Phèo. Ông thật sự rất yêu quý những người lao động chân chính. Vì hoàn cảnh mà họ bị đẩy vào con đường tội lỗi. Nhưng ngay cả khi bị cuộc đời làm biến dạng nhân hình và làm méo mó nhân tính thì Nam Cao vẫn nhìn thấy vẻ đẹp trong sáng luôn tiềm ẩn trong con người họ. Họ chỉ cần gặp điều kiện thuận lợi thì phần người sẽ bừng dậy một cách mạnh mẽ. Đúng lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ ”hết sức ngạc nhiên” đến xúc động ”thấy mắt mình như ươn ướt” bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà”. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm. Thị Nở còn cảm nhận thấy hắn rất hiền. Dưới ánh sáng của ty, thị Nở bỗng trở thành 1 người đàn bà có duyên, cũng biết lườm yêu, biết e lệ, biết ”ngượng ngùng mà thinh thích khi nghe 2 tiếng ”vợ chồng”. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Chí đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Ty của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy mà thôi thúc tình cảm hắn. Hắn thật sự muốn ”thế này” đó là muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị.. “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở – một lời cầu hôn rất canh điền, chất phác, giản dị. Hắn muốn sống như 1 con người đúng nghĩa, khao khát đc trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với cuộc đời. Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới 1 tương lai tốt đẹp. Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình người trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiện lương, của lòng lương thiện. Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo, rốt cuộc thì ngay chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu hắn. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cũng như mọi người dân làng Vũ Đại khác, bà đã quen coi Chí là 1 thằng lưu manh, hơn thế nữa là 1 con quỷ dữ. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” rướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Như thế, Chí Phèo thật sự rơi vào 1 bi kịch tinh thần đau đớn. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong ước được trở lại cuộc sống lương thiện cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hy vọng. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Chí Phèo 1 lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng, đau đớn tột cùng ”ôm mặt khóc rưng rức”. Chí Phèo uống thật say, nhưng lần này k như mọi lần, càng say thì Chí lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người của mình rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: ”Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này?… Tao không thể làm người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Căm thù cao độ và không còn lối thoát. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Chí đã chết khi cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt trước mặt anh không cho anh trở lại. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận đc cuộc sống của 1 con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà xã hội đâu cho, bởi cái khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa về cuộc làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người! Với nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực, miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình cộng với cốt truyện với các tình tiết hấp dẫn, biến hóa bất ngờ. Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bài tham khảo Mẫu 3 Nếu như Thúy Kiều của Nguyễn Du gặp phải bị kịch đớn đau về tình yêu và Hộ gặp phải bi kịch éo le về nghệ thuật đương thời thì Chí Phèo của Nam Cao lại gặp một loại bi kịch vô cùng lạ lùng. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo bước ra từng tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao với một loạt những khổ đau, những bất hạnh. Và cũng không phải vô tình mà Nam Cao lại dành hết những gì là đớn đau nhất cho “đứa con đẻ” của mình. Ngòi bút sắc sảo và tấm lòng giàu yêu thương của ông đã gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm cùng với sự cảm thông sâu sắc tới những con người cùng khổ như Chí. Chí chỉ là một đứa trẻ mồ côi chưa một lần được biết đến hơi mẹ. Chí ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm dục hãm hại khiến Bá Kiến ghen tuông đẩy Chí vào tù. Năm tháng của tù đày đã cùng Chí nuôi lòng thù hận ngày một lớn dần lên. Cho đến khi ra tù Chí trở thành một con quỷ dữ khiến cả làng Vũ Đại khiếp sợ. Còn Nam Cao chỉ tả chỉ với hai từ ngắn gọn “ghê tởm”. Nhưng khi gặp được Thị Nở – cuộc đời Chí ít nhất cũng đã được biết đến bàn tay chăm sóc của một người đàn bà thực sự. Nhưng thị lại nghe lời bà cô cự tuyệt mối tình ấy, khiến Chí một lần nữa trở thành con quỷ dữ. Trong cơn uất hận, Chí đến giết Bá Kiến và tự vẫn để đòi quyền làm người lương thiện. Câu chuyện kết thúc nhưng bi kịch về cuộc đời Chí vẫn làm người đọc không khỏi xót xa. Được sinh ra làm người nhưng lại bị chính những con người xung quanh mình cự tuyệt quyền làm người. Hay nói đúng hơn là không ai nhìn nhận Chí là một con người nữa. Thay vào đó là một con quỷ dữ không hơn không kém. Con quỷ ấy trước đây đã từng là một con người lương thiện, hiền lành chịu khó. Nhưng giờ đây lại ôm hận trở về làng với những cơn say triền miên. Say lại chửi. Chửi cho quên đời, cho bõ tức, cho hả lòng hả dạ. Nhưng càng chửi, càng bực. Bởi ai cũng “chừa mình ra” thì Chí chửi ai bây giờ? Đến ngay cả tiếng chửi xúc phạm đến người khác Chí cũng chẳng được ai để ý. Bởi nếu là một người bình thường khi tung ra những lời lẽ chua ngoa ấy kiểu gì cũng bị dân làng xúm vào chửi lại, thậm chí là đánh đập. Nhưng Chí thì lại khác. Chỉ có lũ chó chạy theo sủa ầm ĩ. Chẳng ai hiểu rằng đằng sau những tiếng chửi ấy là một nỗi niềm khát khao đến cháy bỏng được quay trở về làm người. Chỉ cần có ai đó chửi lại thôi cũng đủ để Chí thấy rằng mình vẫn được công nhận làm người. Nếu sống một cách bình thường, có thể không ai để ý đến Chí. Có lẽ Chí nghĩ rằng phải chửi thật xúc phạm, thật nhiều để xem có ai chửi lại không, để Chí biết rằng mình vẫn còn được nhìn nhận. Nhưng buồn thay, tiếng chửi của Chí chỉ có tiếng chó sủa đáp lại. Cho tới khi gặp được Thị Nở, cuộc đời Chí bước sang một trang mới. Chí ý thức được bản thân mình. Lần đầu tiên Chí tỉnh, tỉnh rượu và tỉnh cả những dòng suy nghĩ đau đáu về lòng thù hận. Không ngờ sự chăm sóc ân cần của một người đàn bà dở hơi lại có sức mạnh tác động lớn đến Chí như vậy. Tỉnh táo, Chí cũng chẳng mảy may nghĩ rằng thị chỉ là một người dở hơi, xấu xí. Vì rằng điều mà Chí khát khao bấy lâu nay là được nhìn nhận là người đã đạt được. Thậm chí thị còn dành cho Chí những hành động, cử chỉ của một “người yêu” thực sự. Chính thị – một con người chỉ hơn Chí ở cái là được mọi người nhìn nhận là người – đã đánh thức phần người trong Chí. Có lẽ cũng vì thị dở hơi nên thị không ý thức được về hiện trạng của Chí lúc này nên thị mới ngã vào lòng Chí. Nhưng dù sao điều đó cũng đã là một ân huệ lớn lao cho cuộc đời Chí. Lần đầu tiên Chí tỉnh rượu sau những cơn say. Chí bắt đầu cảm nhận hương vị của cuộc sống từ những điều bình dị nhất, giản đơn nhất: tiếng mái chèo, tiếng chim hót, tiếng người đi chợ qua lại… Và rồi, ước mơ trong sáng đến thánh thiện ngày nào trở về trong Chí. Chí ước có một gia đình nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn kiếm tiền, vợ thêu thùa chăm lo việc gia đình. Hạnh phúc nhỏ nhưng cuộc sống êm đềm ý nghĩa biết bao. Nghĩ vậy, Chí càng quyết tâm quay trở lại làm người lương thiện. Sẽ bỏ rượu. Sẽ không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Từ nay sẽ thay đổi. Nhưng. Than ôi! Hạnh phúc đang phất lên thì lại bị hất văng ra khỏi bàn tay yếu ớt của Chí khi thị trở về nghe lời bà cô cự tuyệt Chí. Như vậy, đến ngay cả con người cuối cùng của xã hội này mà Chí đặt niềm tin vào cũng không thể kéo Chí dậy được. Thậm Chí còn đẩy Chí vào bờ vực thẳm sâu hơn, đớn đau hơn. Lúc này đây, hương cháo hành lại làm Chí xôn xao trong người. Niềm khát khao được làm người chưa bao giờ cháy bỏng và mạnh mẽ đến thế. Nhưng ai sẽ cho Chí được làm người đây? Và lại là một người lương thiện thì càng khó. Ước mơ giản đơn ngày nào của Chí chẳng lẽ bị vùi dập nhanh chóng như thế này sao? Hạnh phúc tưởng chừng như đã ở trong tầm tay nhưng lại bỗng dưng vụt mất. Chí hụt hẫng, khổ đau. Như vậy, tất cả mọi người, không một ai còn nhìn nhận Chí là một con người nữa. Có thể sẽ có người nói rằng: Chí hoàn toàn có thể tự mình làm người lương thiện bằng cách sống tốt hơn, không chửi bới, không say xỉn và xin đi làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Rồi dần dần mọi người sẽ lại quý mến Chí, cho Chí những cơ hội tốt hơn để tiến thân. Nhưng cuộc sống đâu phải dễ dàng đến vậy. Nhất là trong xã hội ấy, giai cấp cầm quyền là đại diện cho những điều gian ác nhất, bất nhân nhất. Liệu rằng Bá Kiến có để cho Chí được sống một cuộc sống êm đềm không khi hắn đã từng có thù hằn với Chí? Hơn nữa, khi đã mang trong mình lòng thù hận quá sâu sắc, liệu rằng ai có thể bình thản mà sống được. Có thể do Chí chưa mạnh mẽ, chưa đi đúng hướng nên đã để xảy ra những bi kịch đớn đau trong cuộc đời mình. Nhưng khi nhìn bằng cái nhìn khách quan, Chí chính là kết quả của một xã hội phong kiến thối nát, tàn nhẫn. Chí là đại diện cho những người nông dân bần cùng bị xã hội dồn ép đến mức đánh mất cả nhân tính, để đến khi muốn quay trở lại làm một con người bình thường cũng chẳng được nữa. Đây là một loại bi kịch lạ lùng nhất trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học hiện thực nói riêng. Qua tấn bi kịch ấy, nhà văn đã chĩa thẳng ngòi bút của mình đến thế lực phong kiến độc ác đã lấy đi nhân tính của biết bao nhiêu người nông dân lương thiện. Đồng thời ông cũng bênh vực và cổ vũ mọi người hãy cùng nhau đứng lên giành lấy quyền sống, quyền tự do cho chính mình để không ai phải tìm đến cái chết một cách thương tâm giống như Chí Phèo ở cuối tác phẩm. Bài tham khảo Mẫu 4 Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ yếu ở hai mảng đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo với bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Đây là bi kịch phản ánh sâu sắc nỗi thống khổ của Chí Phèo nói riêng, của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám nói chung. Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám. Ban đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí Phèo”. Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thuở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống bơ vơ bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù. Khi ra tù, Chí thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá Kiến, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một cô gái xấu “ma chê quỷ hờn”. Bát cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc của Thị đã thức tỉnh phần người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao ước được trở lại làm người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng bà cô Thị ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền làm người. Chí bèn xách dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn. Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cục của một thảm kịch bi thương. Chí Phèo suốt đời mang khát vọng cháy bỏng được làm người lương thiện thế nhưng lại trở thành kẻ bất lương, sinh ra là người nhưng không được làm người để rồi chết trên con đường trở về lương thiện. Bước vào câu chuyện, người đọc ấn tượng ngay với hình ảnh một thằng say “vừa đi vừa chửi”: “Hắn chửi trời…Rồi hắn chửi đời…chửi cả làng Vũ Đại…chửi đứa nào không chửi nhau với hắn…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn…”. Mới đọc, ai cũng hình dung ra hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng trong cơn say, bước đi liêu xiêu và lè bè chửi; và chắc rằng ai cũng cảm thấy bật cười trước hình dung này. Tuy nhiên, đọc và ngẫm cho kĩ, sau cái cười lại là niềm thương cảm, đau đớn cho Chí Phèo. Hắn chửi và mong người ta đáp chửi lại hắn bởi như thế người ta còn coi hắn là con người. Nhưng không ai lên tiếng vì không còn ai công nhận hắn là người. Đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi khao khát được giao tiếp với đồng loại dẫu bằng hình thức tồi tệ nhất, là nỗi cô đơn khủng khiếp của một người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt quyền làm người, không được coi là con người . Từ cách mở đầu ấn tượng đó, Nam Cao dẫn dắt người đọc trở lại với quá khứ, giúp người đọc nhận thấy bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời hiểu ra căn nguyên nào dẫn đến tình trạng ấy. Sinh ra, Chí đã bị ba mẹ cự tuyệt quyền làm người: sự ra đời của nó không ai chờ đợi, cha nó không thừa nhận, mẹ nó bỏ nó trong một lò gạch hoang mặc cho sống chết. Được cứu sống nhưng ngay lập tức hắn trở thành hàng hóa mua qua bán lại. Sau khi bác phó cối chết, hắn trở thành kẻ bơ vơ. Đời Chí bọt bèo, lênh đênh tội nghiệp chẳng khác nào cây hoang, cỏ dại trôi hết góc này đến số nọ, không người chăm sóc, dạy dỗ. Nhưng không vì thế mà hắn trở nên hư hỏng mà trái lại, “hắn hiền như cục đất”, ai sai gì hắn làm nấy, ai bảo gì hắn nghe vậy. Làm thuê trong nhà Bá Kiến, hắn là anh canh điền chăm chỉ, cần cù, chỉ biết làm ăn, biết tự trọng, có nhân cách. Nhưng Bá Kiến, nhà tù thực dân đã ra sức hủy diệt sự lương thiện ở Chí. Bá Kiến ghen vu vơ đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù, nhẫn tâm biến người dân hiền lành trở thành tù nhân. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào, bắt giam là anh Chí vô tội nhưng thả ra là một Chí Phèo lưu manh, tha hóa. Trở về, không gia đình, không người thân thích, không nơi nương tựa, không nghề nghiệp mưu sinh, hắn trở thành tay sai của Bá Kiến. Hắn sống bằng chửi bới, dọa nạt, đập đầu, rạch mặt, ăn vạ. Cái mặt của hắn trở nên méo mó thê thảm, “nó là mặt của một con vật lạ, nó vằn lên không biết bao nhiêu là sẹo, không thứ tự”. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tác oai tác quái gây họa cho bao nhiêu dân làng. Hắn “phá tan bao nhiêu cơ nghiệp, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của không biết bao nhiêu là người lương thiện”. Bây giờ hắn không là con người nữa mà phải sống kiếp con vật, hắn sống trong vô thức, sống triền miên những cơn say. Sự thay đổi đáng sợ của Chí từ khi ra tù có nguyên nhân ban đầu là bởi sự xa lánh của mọi người khi hắn trở về. Nếu như, khi về làng, hắn có được tình yêu thương chăm sóc của một số người, thậm chí chỉ là một người như Thị Nở, thì hắn đã không bị bóp méo cả nhân hình lẫn nhân tính. Thực tế không như thế. Người ta kì thị trước một kẻ đi tù về, không ai cho hắn một nguồn giao tiếp, không ai coi hắn là con người nên hắn cứ phải say, phải chửi cho quên hết. Lâu dần, người ta lại không coi hắn là con người nữa, hắn làm tay sai cho Bá Kiến để rồi ngày càng sa vào vũng lầy tội ác và không thể trở lại làm người nữa. Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bắt đầu tỉnh táo. Tình yêu và sự chăm sóc của thị đã đánh thức phần người lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong hình hài con quỷ dữ. Hắn “thèm được sống lương thiện, thèm được làm hòa với mọi người”. Hắn hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, bởi hắn nghĩ rằng, Thị Nở có thể sống được với hắn thì tại sao mọi người lại không thể. Thế nhưng, bà cô Thị Nở – một đại diện của dân làng Vũ Đại – đã dập tắt ngay niềm hi vọng ấy. Sự ngăn cấm của bà cô khiến hắn bừng tỉnh nhận ra bi kịch đau đớn mà bấy lâu nay hắn đã mơ hồ nhận thấy: bị cự tuyệt quyền làm người. Lời bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra những định kiến khắt khe của xã hội với hắn. Định kiến xã hội đã không coi Chí như là con người, nó chối phắt Chí, đẩy Chí ra khỏi phạm vi loài người. Định kiến ấy không chịu nhận ra phần người lương thiện đã quay về, không chịu chấp nhận một kẻ như Chí. Có thể khẳng định rằng, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lần này là đau đớn nhất. Bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra bi kịch đau đớn của cuộc đời mình, hắn lại uống rượu, nhưng lần này càng uống hắn càng tỉnh. Hắn xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi “giết cả nhà nó”, “giết con khọm già nhà nó”, nhưng bước chân hắn lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến. Có lẽ, khi phần người quay về thì nỗi đau, nỗi phẫn uất khiến lí trí vẫn tỉnh táo, hắn nhận ra kẻ thù. Đến nhà Bá Kiến, hắn lên tiếng đòi lương thiện thống thiết. Tuy lên tiếng đòi lương thiện nhưng đồng thời Chí cũng đau đớn nhận ra không thể là người lương thiện được nữa: “ai cho tao lương thiện, làm thế nào cho mất hết những vết mảnh chai trên mặt này”. Nhận thức được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người và nguyên nhân của bi kịch, Chí hành động quyết liệt: giết Bá Kiến. Giết lão bá rồi, Chí cũng không còn có thể sống mà làm người được, bây giờ, nếu Chí tiếp tục sống, hắn sẽ phải tiếp tục là con quỷ, hắn “chỉ còn một cách” là tự vẫn. Hai vũng máu thảm khốc cuối tác phẩm chính là lời tố cáo sâu sắc nhất chế độ nhà tù thực dân và tầng lớp thống trị phong kiến. Những thế lực này đẩy Chí vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, và cùng với thế lực hủ tục phong kiến tước đoạt hẳn con đường trở về làm người của Chí. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào “bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà bắt đầu truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người đọc, vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực tiếp cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, có đoạn là lời người kể chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào nhân vật, làm cho đoạn văn như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến người đọc thực sự khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình người của Nam Cao cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại. Xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao vừa tố cáo sâu sắc xã hội phi nhân tính vừa thể hiện tấm lòng thương yêu đồng cảm của mình với người nông dân đương thời. Với “Chí Phèo”, Nam Cao đã khắc tên mình vào nền văn học hiện đại Việt Nam. Bài tham khảo Mẫu 5 Khi Chí Phèo: "Ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ" (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y. Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo. "Bi kịch là tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng". Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn vấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng "cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người". Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân mình. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô ý thức, để tìm căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khổ thay, Chí càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở "Không chỉ biết cho mà còn biết giữ". giá như. giá như. chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy. Chí là "một đứa con hoang", "một anh đi thả ống lươn một buổi sáng đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa". Năm từ "một" tồn tại trong câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng những người lao động, Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, "biết không thích những cái gì mà người ta khinh". Anh khát khao có "một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải". Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thể với trong tầm tay. Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy - tám năm. Đấy là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. "Hắn về lần này trông khác hẳn". Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng "săng đá" (lính tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất "cơng cơng" - "câng câng" thì còn ra cái mặt người. "Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết". Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù. Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, "Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện". Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói trước khi gặp thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát. Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn. Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cái cách người ta sản sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở thành người lương thiện. Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người "dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn", lại là nguồn sáng duy nhất ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã khơi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót, ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh đó gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn "sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc - cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau". Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu - dù là tình yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí, Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, "đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ". Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: "Không được nữa rồi chỉ còn cách này". Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói những câu cuối cùng "đòi lương thiện" với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền làm con người. Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám "nuôi dưỡng". Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.
|