Diderot – nhà văn , nhà triết học Pháp thế kỉ thứ 18 từng cho rằng : “Nghệ thuật là chỗ tìm ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường” Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua đoạn trích “Độc Tiểu Tha

“Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu” Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng có lẽ những vần thơ Nguyễn Du vẫn mãi trường tồn trong lòng người đọc.

“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng có lẽ những vần thơ Nguyễn Du vẫn mãi trường tồn trong lòng người đọc. Bởi lẽ nhà đại thi hào viết thơ “ như có máu nhỏ trên đầu ngọn bút , nước mắt thấm qua trang giấy”. Thơ ông đề cập sâu sắc đến nỗi đau từ cổ chí kim của con người nhất là người phụ nữ – những “kiếp hồng nhan” hay những kẻ tài hoa mà bạc mệnh.Và “Độc Tiểu Thanh kí” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho tấm lòng thương người tiếc tài của đại thi hào Nguyễn Du. Chính cái tâm sáng ngời ấy đã khiến tác phẩm của ông sống mãi trong suốt trường kì lịch sử hay còn bởi con mắt tinh tường trong 6 cõi như nhà văn, nhà triết học Pháp Diderot nói: “Nghệ thuật là chỗ tìm ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường”.

Giữa cuộc sống thường nhật đầy rẫy những bộn bề, lo toan, hiếm có ai thử sống chậm lại để một lần cảm nhận về những điều phi thường trong vô vàn điều hết sức bình thường ấy. “ Tìm ra điều phi thường trong cái bình thường” là một cách khám phá, một cách nhìn sâu sắc mọi vấn đề. Nếu chỉ tìm hiểu về những thứ hào nhoáng, hời hợt ở vẻ bề ngoài thì sẽ chẳng bao giờ ta có thể nhận ra được vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong thứ vật chất phù du ấy. Nhưng “ từ trong cái phi thường ta phải nhận ra được những thứ bình thường”. Đây lại là một cách đánh giá bao quát , đơn giản hóa vấn đề, phải có con mắt tinh tế lắm thì ta mới dễ dàng nhận ra vẻ đẹp bình dị, rất đỗi thân quen của đối tượng cần nhắc đến. Nhận định của Diderot đã đưa ra một quan điểm hoàn toàn xác đáng : “ Người nghệ sĩ phải có cái nhìn linh hoạt, thấu đáo, đa phương diện về một vấn đề hay đối tượng văn học”.

Mộng Liên Đường chủ nhân có nói: “Nguyễn Du có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” Thật vậy , tấm lòng Nguyễn Du luôn canh cánh lo cho con người,ông vui với niềm vui của con người, đau cùng nỗi đau con người, phải khóc, phải cười, phải trăn trở với con người. Thơ ông trở nặng suy tư , đau đáu một nỗi niềm : “ Nhân tình thế thái”. Lời thơ như tiếng tri âm, đồng cảm của những kẻ cùng chung số phận đặc biệt là Tiểu Thanh trong tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” .Hai con người như hòa vào làm một để cất lên tiếng than đau đến đứt ruột.

Trong xã hội phong kiến đương thời, có biết bao nhiêu người phụ nữ phải sống trong những nỗi đày đọa triền miên cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Nguyễn Du lại không viết về những người phụ nữ ấy mà chính cái tài “tìm ra điều phi thường trong cái tầm thường” đã giúp ông vượt qua cả rào cản về mặt thời gian( cách xa hơn 300 năm) và không gian địa lí trắc trở( Trung Quốc) để tới tri âm với nàng Tiểu Thanh- người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ.
Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ,giờ chỉ còn lại một số bài thơ gọi là “phần dư”.

Câu thơ đầu tiên cất lên là lời than cho cái đẹp bị dập vùi, tàn phá phũ phàng:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”

Cảm xúc trước sự đổi thay của cuộc đời là cảm xúc mang tính nhân văn khá phổ biến trong thơ trung đại. Nguyễn Trãi thăm núi Dục Thúy mà cảm khái trước cảnh “rêu phủ nét chữ người xưa”.Bà Huyện Thanh Quan ngậm ngùi trước cảnh “dấu xưa xe ngựa” giờ chỉ còn là “ hồn thu thảo”, “ nền cũ lâu đài” gợi nhớ một triều đại rực rỡ đã đi qua. Câu thơ của Nguyễn Du có gợi lên lẽ đời dâu bể nhưng mối thương tâm của thi nhân lại đặt nơi cái đẹp bị tàn phá phũ phàng.Hình ảnh thơ đối lập: cảnh đẹp >< gò hoang gợi nghịch cảnh éo le. Từ “tẫn” trong nguyên bản chữ Hán “tẫn thành khư” gợi sự đổi thay mãnh liệt không còn dấu vết nào.Dường như phải có một con mắt tinh tế lắm mới có thể nhận ra đống đổ nát nơi gò hoang xưa đã từng là một địa danh rất đẹp. Thời gian tàn phá lên mọi cảnh vật , phủ mờ đi tất cả. Đang trong dòng hoài niệm bỗng tác giả sực tỉnh và trở về thực tại, với nghịch cảnh trớ trêu, nghịch cảnh giữa qúa khứ và hiện tại, giữa vẻ đẹp huy hoàng/sự hoang vu cô quạnh.

Nhớ đến Tây Hồ là nhớ đến nàng Tiểu Thanh- người con gái tài hoa bạc mệnh. Nguyễn Du xót xa tiếc nuối, ai oán trước số phận nghiệt ngã của Tiểu Thanh .Cái chết của nàng là bằng chứng xót xa cho một kiếp hồng nhan, từ đó càng nuối tiếc trước cảnh và người đẹp đều chịu chung số phận. Nếu như trong truyện Kiều, Thúy Kiều tri ngộ với số phận Đạm Tiên qua lời kể của Vương Quan thì ở Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du thấu hiểu nỗi oan khiên của Tiểu Thanh qua “ mảnh giấy tàn” trước song cửa sổ:

“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
Cuộc tri ngộ giữa Thúy Kiều và Đạm Tiên còn có sự chứng kiến của chị em Kiều , còn viếng thăm của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh chỉ qua một tập sách bị đốt dở. Chữ “ độc” và chữ “nhất”trong câu thơ chữ Hán cũng là để nói một lòng đau tìm gặp một hồn đau.Ông đã một mình đối diện với số đời của Tiểu Thanh. Đây phải chăng là sự đồng cảm giữa “tài tử và giai nhân”,giữa “xưa và nay”.

Người con gái với số phận nghiệt ngã là thế nhưng với ngòi bút nhân đạo của mình, ông đã khai phá được những vẻ đẹp tài năng và tâm hồn ẩn sâu bên trong con người nàng. Đời Tiểu Thanh là điển hình của hai nỗi oan lớn: hồng nhan bạc phận, tài mệnh tương đố.Người đẹp như nàng mà bất hạnh, chết yểu. Có tài thơ văn như nàng mà bị dập vùi. Di cảo của Tiểu Thanh chính là di hận:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”.

Nguyễn Du nhắc đến cuộc đời Tiểu Thanh bằng những ẩn dụ tượng trưng quen thuộc , son phấn là biểu tượng cho sắc đẹp, văn chương là ẩn dụ cho tài năng của Tiểu Thanh .Hai vật thể vô tri vô giác được nhân cách hóa như có “thần”,có “ hồn”. Chính nước mắt và máu của Tiểu Thanh đã tạo nên “cái thần”,”cái mệnh”của son phấn, văn chương, hay “niềm cảm thông lạ lung của nhà đại thi hào dân tộc”(hoài Thanh) đã tạo “thần”,cái “hồn” để nó để cho nó để nỗi hận còn vương đến muôn đời ?Cảm xúc của Tố Như càng dồn nén thì câu thơ càng dẫn đến tính đa nghĩa.Nếu hiểu văn chương là chủ thể tự hận thì dẫn đến cách cảm: son phấn có thần, cũng phải xót xa về những việc làm sau khi chết, văn chương không có số mệnh gì cũng bị đốt dở. Nếu hiểu “son phấn”, “văn chương” là đối tượng thương cảm của người đời thì có cách hiểu: son phấn như có thần, sau khi chết người ta còn thương tiếc, văn chương có số mệnh gì mà người ta phải bận lòng đến những bài thơ còn sót lại. Tiểu Thanh đẹp , tài năng là thế,ai mới trông qua tưởng đó là một người phụ nữ “phi thường”,hội tụ tất cả tài năng của quan niệm phong kiến, nhưng họ cũng giống như những người phụ nữ khác đương thời,cũng phải chịu một nỗi đau chung, rất “bình thường” cả về thể xác lẫn tinh thần.

Nhưng xét đến cùng nó cũng quy vào cảm hứng vĩnh hằng của Nguyễn Du trước cái đẹp và tài năng. Ta đã từng bắt gặp nỗi niềm thương cảm của Nguyễn Du thương cho “nghiệp chướng phấn son”, nhưng đồng thời ca ngợi một trang giai nhân tuyệt sắc: “Non bồng xa xuống một cành xinh/ Sắc đẹp màu xuân nức sáu thành” khi viếng ca nữ đất La Thành. Trong “Độc Tiểu Thanh kí”,cái đẹp có thể tàn về thân xác nhưng “chôn vẫn hận”.Cái mệnh của Tiểu Thanh thật ngắn ngủi còn cái mệnh của văn chương thì “đốt còn vương”. Giọt nước mắt xót thương cho số phận Tiểu Thanh đã kết tinh lại thành hạt châu trân trọng và ngợi ca cái đẹp.Nếu đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, xã hội phủ nhận tài năng,trí tuệ của người phụ nữ thì tác phẩm của Nguyễn Du lại càng được đánh giá cao bởi chiều sâu nhân đạo.

“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Nguyễn Du đã từ cái hận của Tiểu Thanh mà nghĩ đến cái hận muôn đời, cái hận này cứ triền miên không bao giờ chấm dứt.Từ nỗi đau riêng của Tiểu Thành mà quy thành nỗi đau từ cổ chí kim của bao kiếp người tài hoa. Nỗi oan của Tiểu Thanh trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ – những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ – và bao người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời” (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức của nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du. Do vậy nỗi hận trở nên quá lớn khó mà hỏi trời được: “Thiên nan vấn”. Lời thơ như lời than, oán trách ông trời vì lẽ đời nghiệt ngã, trái ngang đã đẩy bao kẻ phong lưu vào kiếp đời buôn ba, đau khổ.Nhưng có hỏi trời thì cũng chẳng mong một lời giải đáp, vì thế càng hận, càng nhức nhối.Nỗi đau của Tiểu thanh vốn dĩ rất riêng nhưng Nguyễn Du đã tinh tế nhận ra nỗi đau rất bình thường, rất rộng lớn- đó là nỗi đau của cả một lớp người, một thế hệ:

“ Cổ kim hận sự thiên nan vấn”
Bên cạnh nỗi hận là cái “án phong lưu”. Và đây lại là một nghịch cảnh chua xót; khách phong lưu mà phải khổ, phải mang cái án oan lạ lùng vì nết phong nhã. Đến câu thơ thứ sáu thì khách thể và chủ thể đã hòa vào làm một:

“Phong vận kì oan ngã tự cư”
Câu thơ dịch chữ “ngã” thành chữ “khách” đã không tô đậm được yếu tố chủ thể nhập thân vào khách thể.Nguyễn Du tự cho mình là người cùng hội với Tiểu Thanh.Đó là tình cảm chân thành đồng điệu của Nguyễn Du, cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông. Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hóa thân vào nàng Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho là mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam trước ông có lẽ hiếm ai thể hiện sâu sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế. Tâm sự chung của những người mắc “kỳ oan” đã được bộc bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người đọc cũng không khỏi ngậm ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ. Vậy là từ giọt lệ thương người, khóc người, Nguyễn Du đã chuyển sang tự thương mình.
Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ là niềm mong ước được tri âm của Nguyễn Du ở hậu thế:

“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du không hỏi quá khứ, hiện tại mà hỏi tương lai, không hỏi trời, đất mà lại hỏi người đời.Hỏi ba trăm năm sau,thiên hạ có ai khác Tố Như?Với Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có một Nguyễn Du “thổn thức bên song” với “mảnh gả giấy tàn”. Còn Nguyễn Du liệu có ai khóc, ai đau cho phận đời trôi nổi. “Bất tri”-không biết được. Niềm tự thương kết tụ thành một lời thắc mắc lơ lửng giữa không trung mà chẳng ai có thể giải đáp được vì thế từ đau đến cực độ.Ông muốn tìm thấy sự tri âm ở mai hậu bởi lẽ khi con người ta cô đơn, lạc lõng mới dễ trở nên yếu đuối,vô vọng.Nhà thơ khắc khoải hoài vọng ở tương lai: đời sau trong muôn một còn có kẻ “khóc người đời xưa”bởi thời đại Nguyễn Du khổ đau,khát khao được giải tỏa nhưng vẫn bết tắc.Bế tắc nhưng vẫn không thôi hi vọng.Vì vậy, nỗi niềm Tố Như gửi tới mai hậu không phải là sự tuyệt vọng mà là niềm hi vọng được giải tỏa.

Tự thương mình là một nét mới mang tinh thần nhân bản của thời đại cuối thế kỉ thứ XVIII-đầu thế kỉ XIX-thời đại con người chưa ý thức được về bản thân, về tài năng, nỗi đau của chính mình.Sự tự thương mình là sự tự ý thức,là bằng nước mắt mà thấm in bản ngã của mình để chống lại sự chi phối của quan niệm “phi ngã”, “vô ngã”.
Bài thơ mở đầu bằng khóc người , thương người nay kết thúc bằng khóc mình, thương mình. Khóc người,thương người là sự mênh mang cao cả của trái tim nhân đạo. Khóc mình, thương mình là sự sâu sắc của tư tưởng nhân văn. Độc Tiểu Thanh kí đã hội nhập được cả hai điều đó .

Chỉ với tám câu thơ nhưng người đọc đã đủ cảm nhận được một tâm hồn tha thiết yêu cuộc sống, yêu con người của đại thi hào Nguyễn Du. Không cần đến 300 năm sau , hậu thế vẫn luôn nhớ đến ông, nhớ đến những vần thơ tràn đầy xúc cảm như thứ ánh sáng lấp lánh nổi bật lên kho tàng văn thơ trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung:
“Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người.”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

Nghệ thuật chân chính không nhất thiết là phải dùng những ngôn từ mĩ lệ , những đề tài mới chưa ai khám phá mà“Nghệ thuật là chỗ tìm ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường” . Muốn vậy kẻ làm thơ phải có năng khiếu, có vốn văn hóa rộng rãi, lí tưởng thẩm mĩ cao đẹp, hơn hết là một cái tâm sáng ngời bởi lẽ “ thơ là tiếng lòng” ( Diệp Tiếp).
Qua tác phẩm văn chương, nhà thơ nhìn đời một cách cao đẹp, đầy giá trị nhân văn.Nhờ việc hiểu rõ về những thứ “tầm thường” , “phi thường” thi sĩ có cách đánh giá sâu sắc về cuộc đời. Từ cuộc đời Tiểu Thanh đầy rẫy những đau khổ bất công, nhà thơ bày tỏ thái độ cảm thông, tiếc nuối , tiếc cho lẽ đời dâu bể:

“ Trải qua một cuộc bể dâu
Những gì trông thấy mà đau đớn lòng”.

Chính cái tài thấu muôn đời muôn kiếp ấy đã đưa tên tuổi Nguyễn Du trở thành một nhà thơ hàng đầu của nền văn học viết. Ấy thế mới thấy rõ được quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật của thi sĩ gian nan biết chừng nào. Phải cảm ơn những nhà văn, nhà thơ như thế , người đời mới có thể hiểu rõ về mọi vật trong cuộc sống từ cơ bản, bao quát nhất đến chi tiết, nâng cao.

L.Tônxtôi khẳng định:”Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu.Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì 1 xã hội công bằng,bình đẳng bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn và viết,vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ,hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại”. Nguyễn Du đã đem lòng thương cảm của mình để khóc cho người con gái xa lạ Tiểu Thanh, khóc cho một lớp người “phong vận kì oan”. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Du đã lưu dấu ấn của mình trong lòng bạn đọc để rồi nở hoa thành những lẽ sống đẹp, nhân nghĩa.

Tham Gia Group Dành Cho 2K8 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí

close