Cảm nhận về giọt nước mắt của nhân vật Chí PhèoI. Mở bài - Giới thiệu về nhà văn Nam Cao. - Giới thiệu về tác phẩm Chí Phèo và hình ảnh giọt nước mắt của hắn.
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý chi tiết I. Mở bài - Giới thiệu về nhà văn Nam Cao. - Giới thiệu về tác phẩm Chí Phèo và hình ảnh giọt nước mắt của hắn. II. Thân bài - Giọt nước mắt trong các tác phẩm văn học: + Nước mắt: Sản phẩm cụ thể của tình cảm, thể hiện cảm xúc của con người. + Tâm trạng của con người khi rơi vào tột đỉnh của xúc cảm (buồn, vui): bật ra tiếng khóc, nước mắt. + Bắt gặp nhiều nhân vật với nhiều tính cách đặc trưng khác nhau có những giọt nước mắt như thế (Lão Hạc, Vợ nhặt...) → Giọt nước mắt của Chí Phèo khác hơn (không biết là giọt nước mắt đau khổ hay hạnh phúc) - Giọt nước mắt của Chí Phèo - nước mắt hạnh phúc: + Chí Phèo là một con người cô đơn, bị cả làng xa lánh. + Thị Nở đến với hắn bất ngờ, quan tâm hắn, khiến hắn ấm lòng, cảm động "lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho". + Một con người tưởng đã chai lì cảm xúc (con quỷ), vẫn có thể thấy "mắt mình hình như ươn ướt" vì cảm động - cảm xúc chưa từng có. → Đây là giọt nước mắt hạnh phúc của hắn khi được quan tâm, cũng là giọt nước mắt khi lương tri thức tỉnh. - Giọt nước mắt đau khổ của Chí Phèo: + Chí Phèo bị Thị Nở từ chối tình yêu vì định kiến xã hội (bà cô): "Thị chống hai tay vào háng, vênh vênh cái mặt lên… trút vào hắn tất cả những lời của bà cô". + Diễn biến tâm trạng của Chí rất phức tạp: "hắn ngạc nhiên", "hắn sửng sốt", "hắn ôm mặt rưng rưng khóc". Giọt nước mắt thực sự đầu tiên đã rơi xuống. + So sánh: Giọt nước mắt hạnh phúc "ươn ướt" và giọt nước mắt đau khổ "rưng rưng". + Giọt nước mắt ấy là bi kịch bị từ chối quyền làm con người. + Trước khi gặp Thị Nở: Hắn là một con quỷ, chưa từng ngớt cơn say - Thị Nở đến: Cứu vớt tâm hồn hắn, thậm Chí hắn đã mở được trở lại xã hội. + Giờ đây, Thị Nở lại đẩy hắn xuống vực thẳm bởi lề thói xã hội. + Chí Phèo tìm đến rượu để quên, để lấy lại sức mạnh.Càng uống càng tỉnh, thấy "thoang thoảng mùi cháo hành". Con người trong hắn đã thức tỉnh. - Nghệ thuật miêu tả tiếng khóc của Nam Cao: + Khả năng phân tích tâm lý tài hoa, hóa thân vào nhân vật và trải nghiệm. + Giọt nước mắt của nhân vật trong tác phẩm đều là giọt nước mắt của những số phận bi kịch (lão Hạc, nhà văn Hộ...). → Tiếng khóc giàu ý nghĩa hình tượng, góp phần nổi bật chủ đề của tác phẩm. III. Kết bài -Đánh giá về ý nghĩa giọt nước mắt của Chí Phèo. Bài tham khảo Mẫu 1 Nam Cao là một nhà văn nổi bật trong dòng văn học hiện thực Việt Nam. Ông thường viết về những người dân và trí thức nghèo trong xã hội cũ. Đó là một xã hội của những năm tháng trước Cách mạng tháng Tám, khi mà những con người lương thiện phải chịu đựng những lề thói, những ức hiếp, những oan trái của bọn tay sai cường quyền, của hủ tục phong kiến lạc hậu, trói buộc con người để rồi tha hóa, biến chất, trở thành kẻ lưu manh trong xã hội. Điển hình trong số đó là nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của ông. Tác phẩm đã để lại cho chúng ta nhiều điều trăn trở về số kiếp của một con người. Hình ảnh giọt nước mắt của Chí Phèo - giọt nước mắt của con quỷ làng Vũ Đại thời ấy có lẽ là hình ảnh khiến chúng ta đau đáu, suy tư nhiều hơn cả. Tác phẩm kể về Chí Phèo - một kẻ không cha không mẹ, từ một chàng trai hiền lành, bị vu oan rồi bị bắt vào tù. Sau khi đi tù về, hắn trở thành kẻ lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, hắn chuyên rạch mặt ăn vạ thiên hạ và triền miên trong những cơn say. Thế nhưng đến cuối cùng, khi cái lương tri trong hắn dần thức tỉnh, hắn đã trở lại cái bản tính ban đầu của một con người khi lọt lòng mẹ và mưu cầu có được một cuộc sống bình thường như bao người. Từng phân đoạn trong truyện ám ảnh người đọc không thôi, thế nhưng, có lẽ, cái ám ảnh sâu nặng nhất với người đọc chúng ta là hình ảnh những giọt nước mắt của hắn - con quỷ của làng Vũ Đại, dù cho chúng Chí xuất hiện vỏn vẹn vài lần. Nước mắt vốn để biểu hiện những cảm xúc dâng tới cao trào, tới tột đỉnh, bật ra, phát ra thành hình. Nó là sản phẩm cụ thể của tình cảm, cảm xúc con người. Người ta có thể bật ra nước mắt khi vui mừng quá đỗi, buồn tủi quá đỗi, đau khổ, hay giận hờn quá đỗi... Tiếng khóc bật ra là khi tâm trạng con người đã dâng tới tột đỉnh cao nhất. Trải dài trong những tác phẩm của văn học Việt, chúng ta bắt gặp không ít những giọt nước mắt của các nhân vật. Điểm qua những tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực, người ta bắt gặp giọt nước mắt vì vui mừng, hạnh phúc quá đỗi mà trào ra trong Vợ nhặt của Kim Lân, bắt gặp giọt nước mắt giả dối trong "Hạnh phúc một tang gia" - một đoạn trích trong tác phẩm hiện thực châm biếm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng... Và ngay trong chính tác phẩm của Nam Cao, người ta cũng bắt gặp một giọt nước mắt đau đớn đến xé lòng, đó là giọt nước mắt khổ đau của lão Hạc - người nông dân nghèo khi ông bán đi đứa con tinh thần, người bạn thân thiết của cuộc đời mình - cậu Vàng. Những giọt nước mắt đó đều mang đến cho chúng ta những cảm xúc khác biệt, có đau khổ, nhưng cũng có những tiếng cười châm biếm. Thế nhưng phải đến giọt nước mắt của Chí Phèo, người ta mới thấy thật khác, mới cảm được hết trong đó những đắng cay, những xót đau của một con người bị bức tới đường cùng, muốn trở lại làm người khi lương tri thức tỉnh mà lại chẳng thể nào được. Có chăng, giọt nước mắt vừa trào ra ấy của Chí Phèo có cả niềm hạnh phúc khi lương thiện trong hắn trở về? Hay chỉ là giọt nước mắt đau đớn khóc cho số kiếp bi kịch của mình? Nước mắt là thứ biểu hiện cho cảm xúc của con người. Vậy giọt nước mắt của Chí Phèo khi đó phải chăng là giọt nước mắt của nhân tính con người. Nếu đọc kỹ tác phẩm, người ta có thể nhận ra Chí Phèo đã khóc, rơi nước mắt tới hai lần, một lần là khi "hắn thấy mắt mình ươn ướt" và một lần là khi "hắn ôm mặt khóc rưng rưng". Trong hai ấy, có một lần là giọt nước mắt mang tên hạnh phúc của Chí Phèo. Chí Phèo vốn sinh ra đã là một kẻ cô đơn. Hắn được sinh ra "bên một cái lò gạch bỏ không", chẳng ai biết cha mẹ hắn là ai "có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết". Hắn cứ thế lớn lên rồi đi làm công cho bá Kiến. Nghiễm tưởng cuộc đời của hắn cứ thế bình lặng trôi đi cho đến khi hắn bị Bá Kiến ghen rồi đẩy vào tù. Bảy tám năm sau ra tù, hắn từ một chàng trai hiền lành, biến thành một kẻ lưu manh "trông khác hẳn", "trông gớm chết". Dần dần, từng bước, hắn biến thành một con quỷ, bị cả làng xua đuổi, xa lánh. Hắn triền miên trong những cơn say để chửi, để rạch mặt, để ăn vạ cả cái làng ấy. Cho đến khi hắn gặp được Thị Nở trong một lần say rượu trên đường trở về nhà. Sự xuất hiện của thị quá bất ngờ đối với hắn, sự quan tâm của thị dành cho hắn đã làm ấm lòng một kẻ bấy lâu nay bị coi là một con quỷ không có tính người. Bát cháo hành nóng hổi ấy không Chí làm tan cái mệt mỏi của hắn mà còn làm thức tỉnh, rung động trái tim của hắn nữa. Trước sự quan tâm của Thị Nở, Chí Phèo đã thực sự bị cảm động: "Bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho", bởi từ trước tới giờ hắn chỉ biết sống với cô đơn, với sự khinh ghét của người đời, sống bằng "dọa nạt hoặc là giật cướp". Chính hành động ấy của Thị Nở đã đánh thức phần con người đang ẩn giấu bên trong hắn. Một Chí Phèo tưởng chừng đã chai lì xúc cảm, chẳng còn biết yêu thương lại có thể cảm động tới như vậy, đó là một loạt những xúc cảm hắn chưa từng có trong đời. Và lần đầu tiên sau tiếng khóc chào đời, giọt nước mắt của hạnh phúc được bật ra từ Chí Phèo dù Chí rất nhẹ mà thôi "Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt". Giọt nước mắt bất chợt đến ấy bật ra từ Chí Phèo vừa là giọt nước mắt của hạnh phúc, vừa là giọt nước mắt của sự thức tỉnh lương tri còn sót lại trong hắn. Hắn cầm "bát cháo bốc khói mà bâng khuâng", phải, đời hắn đến giờ mới biết thế nào là bâng khuâng. Bởi bản tính lương thiện trong hắn đã trở về sau bao năm bị vùi lấp. Nó được thức tỉnh bởi sự quan tâm của một con người dành cho con người, nó đã làm hắn cảm thấy hắn vẫn còn là một con người, được đối xử giống một con người. Bản tính lương thiện trở về, hắn lại có được những xúc cảm, cảm giác được là người, sau bao năm bị xã hội vùi dập, đẩy xuống tận bùn đen tăm tối. Thế nhưng "hạnh phúc chẳng tày gang" thì Chí Phèo lại một lần nữa bị đẩy xuống vũng bùn tăm tối. Lần này hắn lại khóc, nhưng chẳng phải là giọt nước mắt của hạnh phúc nữa mà là giọt nước mắt của khổ đau tột cùng. Thị Nở vốn là một người đàn bà dở hơi, thế nhưng chính thị lại là người mang đến cho Chí Phèo cảm giác về tình yêu, về hạnh phúc và lần đầu tiên trong đời, hắn mơ được trở lại cái xã hội "bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Đó là ước mơ được trở lại làm người, được hòa nhập xã hội của một con quỷ, ước mơ được "mở đường" bởi người đàn bà mang tên Thị Nở. Thế nhưng, chỉ vì những định kiến của xã hội đã khiến cái ước mơ nhỏ nhoi ấy của hắn chẳng thể thành hiện thực. Thị Nở từ chối cái tình yêu của Chí Phèo: "Thị chống hai tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút hết vào hắn những lời của bà cô. Thị ngoáy cái mông đít đi về". Một bà cô hơn năm mươi tuổi chưa chồng, nên cũng cấm cản cháu mình, "ai đời lại đi lấy thằng không cha", bà đã nói thế với thị, thị nói lại với Chí Phèo. Đó là một sự đả kích thật lớn với cái bản tỉnh vừa trở về kia của Chí, hắn Chí vừa mới tưởng được mở đường, được trở lại làm người thì lại bị vùi dập lần nữa bởi cái định kiến của xã hội. Và chúng ta được thấy lần đầu tiên trong đời, Chí Phèo khóc, thực sự khóc: "hắn ôm mặt khóc rưng rưng". Nếu như giọt nước mắt hạnh phúc chỉ là cái "ươn ướt ở mắt" thì giờ đây là giọt nước mắt này mới thực sự khiến con người ta ám ảnh. Giọt nước mắt ấy là sự đau khổ đến tột cùng khi cái phao cuối cùng, con đường cuối cùng dẫn hắn trở lại làm người đứt đoạn, chấm dứt. Hắn khóc than trước cái bi kịch tột độ của mình, bi kịch bị từ chối quyền được làm người. Nếu như trước kia, trước khi gặp Thị Nở, hắn là một con quỷ bị cả làng ghét bỏ, luôn say trong men rượu thì khi thị đến, hắn được cứu vớt cả tâm hồn, từ một con quỷ trở lại làm con người. Thế nhưng giờ đây, chính thị lại là người đẩy hắn xuống hố sâu, vực thẳm Chí bởi những lề thói, định kiến của xã hội. Lần đầu tiên, hắn hiểu ra. Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo phức tạp logic: "hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng ngẩn người", "hắn sửng sốt" và cuối cùng nước mắt của hắn mới rơi xuống "hắn ôm mặt rưng rưng khóc". Hắn lại tìm đến rượu để quên, để lấy lại sức mạnh trở thành con quỷ như trước. Thế nhưng, cái lương tri vừa thức tỉnh trong hắn lại chẳng để hắn làm vậy, thế là "hắn càng uống càng tỉnh", "hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành". Cái sự thật quá đau khổ đang phơi bày trước mặt hắn, muốn trở thành người nhưng con đường duy nhất lại bị chặt đứt. Giờ đây hắn chỉ muốn "đến nhà con đĩ Nở kia. Đến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó", thế nhưng thâm tâm hắn, lương tri kia chẳng để cho hắn làm vậy. Hắn bị phũ phàng, bị dồn đến tận cùng của khổ đau, và giọt nước mắt kia của hắn hẳn là giọt nước mắt của một con người. Nếu như trước đây, hắn luôn triền miên trong những cơn say, chưa bao giờ hắn nghe được những âm thanh của cuộc đời. Để đến khi gặp Thị Nở, hắn mới bừng tỉnh mà chợt nghe thấy những thanh âm thanh bình của cuộc sống đời thường "tiếng Chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ thuyền đuổi cá", những thanh âm sống động, yên bình ấy "hôm nào chả có" nhưng "nay hắn mới nghe được". Lúc đó, hắn mới cảm nhận được cái đẹp xung quanh mình, cái hạnh phúc mình có. Thế nhưng, cái hạnh phúc ấy đến nhanh quá, đi vội quá, hắn Chí kịp hưởng trong phút giây, là một con người, có xúc cảm, sao có thể chịu đựng nổi mà không bật ra tiếng khóc cơ chứ? Giọt nước mắt của Chí Phèo "rưng rưng" kia, không Chí là của một người đàn ông đau khổ vì bị tình nhân từ chối tình yêu, không chỉ là của một kẻ cô đơn, đau khổ, lạc loài vừa tìm được hơi ấm lại đã bị tước mất mà còn là giọt nước mắt của một con người bị dồn tới tận chân tường của đau khổ, tối tăm, muốn làm người lại bị từ chối làm người. Chí Phèo trở thành nhân vật điển hình, đại diện cho tầng lớp nông dân tận đáy của xã hội, cô đơn, lạc lõng, bị xa lánh nên khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc, yên bình, được làm một người lương thiện. Thế nhưng, cái xã hội đầy những định kiến tàn ác, đầy những bức ép của bọn cường quyền đã dồn ép, khiến hắn tha hóa, lưu manh hóa, chẳng thể đạt được điều đó, vậy nên hắn mới bật khóc. Đó là giọt nước mắt đòi quyền được sống, được làm một con người đúng nghĩa. Nam Cao vô cùng tài năng trong nghệ thuật phân tích tâm lý của nhân vật. Ông hóa thân vào từng nhân vật của mình, để sống, để cảm nhận để miêu tả cho rõ nỗi đau xót, thống khổ của họ. Mỗi giọt nước mắt trong nhân vật của ông đều là những giọt nước mắt của một cuộc đời đầy bi kịch như lão Hạc, như nhà văn Hộ (Đời thừa) ... Những giọt nước mắt của nhân vật trong tác phẩm của ông rất giàu ý nghĩa, nó đã góp phần làm nổi bật tư tưởng và chủ đề mà ông muốn thể hiện. Chi tiết giọt nước mắt của Chí Phèo khiến cho người đọc không Chí băn khoăn với số kiếp đầy bi kịch của hắn mà còn ám ảnh tới tận cùng về cuộc đời của hắn. Nam Cao đã xây dựng hình tượng một Chí Phèo không chỉ biết rạch mặt, ăn vạ như một con quỷ mà còn có những cảm xúc rất đời thường, rất người nữa. Thông qua hình ảnh đó, ông muốn thể hiện mặt trái của xã hội, kết án đanh thép xã hội đã đẩy con người tới tận cùng đau khổ mà bị tha hóa, lưu manh. Đồng thời, ông cũng khẳng định niềm tin về tâm hồn lương thiện của họ, dù có bị vùi dập tới mất cả nhân hình, nhân tính vẫn sẽ luôn còn mãi, Chí là cần người tìm ra, khơi gợi lên mà thôi. Bài tham khảo Mẫu 2 Đề tài người nông dân, nông thôn đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác bất tận cho rất nhiều nhà văn. Hình ảnh người nông dân qua các trang văn được tái hiện vô cùng sống động, đó là Chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, là anh cu Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Cũng viết về mảng đề tài quen thuộc ấy, Nam Cao đã có những phát hiện độc đáo về cuộc sống, số phận của người nông dân, phát hiện này được thể hiện trực tiếp thông qua nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của ông. Truyện ngắn “Chí Phèo” không Chí mang tính hiện thực sâu sắc khi tái hiện được cuộc sống khổ cực, bị chà đạp, tha hóa về nhân tính của người nông dân Việt Nam, đồng thời bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc Nam Cao đã hướng ngòi bút của mình đến thế giới tâm hồn của họ để phát hiện ra những giá trị, phẩm chất tốt đẹp, lương thiện bên trong những con người cùng khổ ấy. Tư tưởng nhân đạo này được thể hiện thông qua Chí tiết giọt nước mắt của Chí Phèo. Giọt nước mắt của Chí Phèo được coi là một trong những chi tiết nghệ thuật đặc sắc nhất góp phần làm nên giá trị cho truyện ngắn Chí Phèo. Chi tiết nghệ thuật đặc sắc không chỉ mang đến những cảm xúc, rung động cho độc giả mà còn góp phần định hướng thẩm mĩ, xây dựng lên hình tượng Chí Phèo mang tính điển hình. Chí Phèo là người nông dân lương thiện, thật thà nhưng bị đày đọa, chà đạp đến mức tha hóa về nhân tính, đó chính là sự bạo tàn vô nhân tính của bọn địa chủ phong kiến mà đại diện ở đây chính là bá Kiến. Chí Phèo bị đẩy đến con đường cùng, trở nên lưu manh, tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân tính. Trong mắt của người dân làng Vũ Đại, Chí Phèo là một con quỷ dữ, người tiếp tay gây ra bao tai họa, đau khổ cho cuộc sống của mọi người. Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, nhận được sự quan tâm, chăm sóc chân thành của người đàn bà xấu xí bị cả làng xa lánh ấy, phần nhân tính tưởng chừng ngủ quên bên trong Chí đã thức tỉnh. Khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo đã vô cùng cảm động, cảm động trước tình người ấm áp của Thị: “..ngạc nhiên hắn thấy mắt mình như ướt ướt”. Từ nhỏ Chí Phèo đã là đứa trẻ mồ côi, đi ở hết nhà này đến nhà khác, lớn lên lại bị người ta bắt đi tù, khi trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại thì mọi người đều coi hắn là thứ người – vật đáng khinh, không ai công nhận quyền làm người của hắn. Thế mới thấy hành động của Thị đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và tình cảm của Chí như thế nào. Từ trước đến giờ không ai cho không Chí thứ gì, hơn nữa đây lại là một người đàn bà cho hắn. Hơi ấm của bát cháo làm cho mắt Chí ươn ướt, giọt nước mắt của Chí là giọt nước mắt của sự cảm động, của niềm vui sướng, xúc động trước sự quan tâm của thị Nở, cũng có nghĩa trong cảm nhận của thị hắn vẫn được công nhận là một con người. Cũng chính giọt nước mắt của Chí đã đánh thức phần lương tri đã ngủ quên bên trong hắn, mở ra bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Chí, hắn không muốn làm con quỷ dữ bị cả làng khinh ghét nữa, hắn khát khao lương thiện, khát khao được làm hòa với mọi người “trời ơi hắn thèm lương thiện”, “hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” và Thị Nở chính là cầu nối giúp Chí trở về với con đường lương thiện. Tuy nhiên, khao khát trở thành người lương thiện của Chí thật khó có thể trở thành hiện thực, những lời mắng chửi của bà cô thị Nở cũng là đại diện cho những định kiến của người dân làng Vũ Đại đã chặn đứng con đường hoàn lương của Chí. Bị cự tuyệt quyền làm người, Chí đã tuyệt vọng, đau đớn mà “ôm mặt khóc rưng rức”. Nếu lần đầu Chí khóc là vì cảm động, là khi lương tri được thức tỉnh thì giọt nước mắt cuối cùng lại rơi trong sự tuyệt vọng, đau khổ đến cùng cực khi bị từ chối quyền làm người, khi biết mình không thể trở lại con đường lương thiện được nữa. Giọt nước mắt của Chí Phèo không khí đẩy diễn biến cảm xúc của nhân vật lên cao trào mà còn thể hiện được giá trị nhân văn sâu sắc mà nhà văn Nam Cao muốn truyền tải, đó là niềm tin vào những giá trị tổ đẹp bên trong con người. Bên trong con quỷ dữ làng Vũ Đại vẫn là tấm lòng hướng thiện, là khát khao hạnh phúc, là những giá trị tốt đẹp bị đau khổ bị đọa đầy. Bài tham khảo Mẫu 3 Nam Cao là một cây bút hiện thực xuất sắc thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Truyện ngắn “Chí Phèo” là kiệt tác đã kết tinh cao nhất cho đặc điểm nghệ thuật của nhà văn viết về đề tài người nông dân trước cách mạng. Trong truyện, nhà văn đã xây dựng được một hình ảnh thấm đẫm tinh thần nhân đạo đó là giọt nước mắt của Chí Phèo khi nhận được tình thương của thị Nở. Có thể nói nhà văn Nam Cao đã tạo nên những ám ảnh lớn về số phận bi kịch của người nông dân Chí Phèo từ lai lịch xuất thân. Nhà văn miêu tả được Chí trong cái lò gạch bỏ không vắng người qua lại. Như vậy, ngay từ đầu số phận Chí Phèo đã đau khổ, bất hạnh và bị hắt hủi, bỏ rơi giữa cuộc đời hoang lạnh. Nhưng rồi những bàn tay của kiếp nghèo chìa ra nâng đỡ Chí: “Anh thả ống lươn rước lấy đem cho bà già góa mù, người đàn bà góa mù bán cho bác phó cối không con, bác phó cối chết, Chí Phèo đi ở cho hết nhà này đến nhà khác”. Đó là một trang đời cô đơn thấm đẫm nước mắt, không cha không mẹ tứ cố vô thân. Nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: “Một con số không to tướng bao trùm lên cuộc đời của Chí”. Tuy nhiên, Chí vẫn là một con người lương thiện. Cuộc đời xô đẩy đến năm hai mươi tuổi, Chí làm canh điền cho nhà bá Kiến cũng là đến với hành trình đau khổ của đời người. Chí đã qua quãng đời bi thương để bắt đầu đến bến bờ của bi kịch. Bắt đầu cái bi kịch của đời người này là Chí phải làm những điều mà hắn thấy nhục hơn là thấy thích, huống hồ lại sợ, đấy là vợ bá Kiến bắt Chí phải bóp chân đấm lưng gì đấy. Chỉ thấy nhục nghĩa là Chí còn có tự trọng. Nói đến quá khứ lương thiện của Chí Phèo, Nam Cao muốn khẳng định bản chất Chí trở thành quỷ dữ nguyên nhân không phải do bản chất của người nông dân này mà là do xã hội phong kiến tàn bạo đã đẩy Chí vào con đường lưu manh, tha hóa bởi Chí trở thành quỷ dữ khi ở tù ra. Vì một chuyện ghen tuông không đâu, bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho bá Kiến đẩy nhanh quá trình tha hóa. Nhà tù đã “nhai ngấu nghiến” tất cả những gì thuộc về phần người trong Chí, để đến khi “thải ra” Chí là con vật với hình hài “cái đầu cạo trọc lộc, cái răng cạo trắng hớn, cái mắt thì đen mà rất cơng cơng, hai con mắt gườm gườm trông gớm chết”. Đây không phải là nét vẽ khiếm khuyết của bàn tay tạo hóa trên hình hài vóc dáng của Chí mà đó là dấu tích sống động về một con người bị xã hội thực dân phong kiến hủy hoại cả nhân hình. Sau khi ở tù ra, Chí Phèo uống rượu say khướt, vác vỏ chai đến nhà bá Kiến để trả thù ăn vạ, cứ mồ mả tổ tiên nhà bá Kiến ra mà chửi, rồi xông vào đánh nhau với lý Cường nhưng bá Kiến - tên cường hào khôn róc đời đã làm suy sụp và tiêu tán ý muốn trả thù của Chí. Từ đó, Chí trở thành tay sai cho bá Kiến. Chí đã trở thành kẻ đâm thuê chém mướn - bán linh hồn cho quỷ dữ. Chí Phèo ăn trong lúc say, rạch mặt trong lúc say. Đời Chí gắn với tiếng chửi, cơn say và những hành động bản năng thô bạo. Cuộc đời ấy tưởng chừng như mãi sống kiếp thú vật nếu như không có cuộc gặp gỡ với thị Nở - người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, dở hơi lại có dòng dõi mả hủi. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu, đặc biệt là sự chăm sóc đầy ân tình của thị Nở: “Thị Nở đã đem đến cho Chí bát cháo hành, bát cháo có gì đâu “một dúm gạo, vài ba cọng hành, một vài hạt muối trắng” ấy vậy mà nó lại trở thành một liều thuốc giải độc đến không ngờ bởi đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho ăn từ sau khi đi ở tù về và được sống trong tình cảm yêu thương thực sự. Bát cháo hành đã nấm càng làm hắn suy nghĩ. “Hắn thấy mắt mình như ươn ướt… Hắn nhìn bát cháo hành bốc khói mà lòng bâng khuâng… Hắn thấy vừa vui vừa buồn… Hắn thấy lòng hắn thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn buồn!”. Hình ảnh giọt nước mắt trong sáng tác của Nam Cao đã vô cùng quen thuộc. Nếu như đám cưới phải là một chuyện vui nhưng “một đám cưới” của Nam Cao chẳng khác nào một đám ma cả nhà gái nhà trai vỏn vẹn chỉ có sáu người. Cả bọn lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm rắt ríu nhau đi tìm chỗ ngủ. Một đám cưới nhưng thực chất là chia nhau ra để trốn chạy cái đói vì vậy ban đầu “Dần sụt sùi khóc, rồi khóc nức lên, nức nở”. Hay nước mặt của Hộ trong “Đời thừa” được Nam Cao miêu tả đầy ấn tượng: “Nước mắt hắn bật ra như một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc. Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như không thể ra tiếng khóc”. Đó là giọt nước mặt xám hối, ân hận. Giọt nước mắt này đã đánh thức phần lương tri đã ngủ quên bên trong hắn, mở ra bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời. Chí Phèo không muốn làm con quỷ dữ bị cả làng khinh ghét nữa, hắn khát khao lương thiện, khát khao được làm hòa với mọi người “trời ơi hắn thèm lương thiện”, “hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” và Thị Nở chính là cầu nối giúp Chí trở về với con đường lương thiện. Nhưng khao khát thành người lương thiện của Chí thật khó có thể trở thành hiện thực. Bà cô thị Nở chính là đại diện cho những định kiến của người dân làng Vũ Đại đã ngăn cản không cho Chí có được quyền làm người. Chí Phèo đã tuyệt vọng, đau đớn mà “ôm mặt khóc rưng rức”. Giọt nước mắt ở đây là giọt nước mắt cuối cùng nhưng lại rơi trong sự tuyệt vọng, đau khổ đến cùng cực khi bị từ chối quyền làm người, khi biết mình không thể trở lại con đường lương thiện được nữa. Hình ảnh giọt nước mắt của Chí là một sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao. Hình ảnh này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu tính cách và tâm lí của nhân vật. Qua việc tập trung thể hiện chi tiết đắt giá ấy, Nam Cao đã thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Bài tham khảo Mẫu 4 Nam Cao đã từng quan điểm rằng “Nước mắt là một miếng kính biến hình vũ trụ”. Quả thực, hình ảnh giọt nước mắt chính là điểm sáng trở đi trở lại trong các sáng tác của nhà văn trước cách mạng. Ta có thể thấy giọt nước mắt day dứt của Hộ trong “Đời thừa” hay của lão Hạc tức tưởi “khóc hu hu” trong tác phẩm cùng tên. Thế nhưng, hình ảnh mang sức ám ảnh nhất lại là giọt nước mắt của Chí Phèo – nước mắt của con quỷ. Hình ảnh giọt nước mắt của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên tuy là một chi tiết nhỏ nhưng đã làm nên thành công của một nhà văn lớn. Chi tiết giọt nước mắt của Chí Phèo xuất hiện hai lần trong tác phẩm. Được ngọn gió tình thương thổi vào cuộc đời, sau bao năm chìm trong men rượu, Chí Phèo tỉnh và ngờ ngợ nhận ra cuộc sống. Cuộc đời của một gã suốt ngày chỉ biết rượu say rồi rạch mặt ăn vạ, phá bao cơ nghiệp, đập đập nát bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người… tưởng suốt đời sẽ phải chịu sự cai trị của cô độc. Ấy thế mà khi Thị Nở xuất hiện – một người đàn bà gàn dở, xấu xí lại mang hơi ấm tình thương đến. Những suy nghĩ ngổn ngang khiến “hắn cứ vẩn vơ suy nghĩ đến khóc được mất”. Đó là lần đầu xuất hiện chi tiết hình ảnh giọt nước mắt. Khi Thị Nở bước đến cùng “bát cháo hành còn nóng nguyên” như có sức mạnh thần kì đẩy lùi con quỷ dữ trong Chí. Bát cháo hành tác động vào tâm hồn tưởng nhưng khô cằn của hắn. Hắn ngạc nhiên trước sự chăm sóc của Thị Nở, hết ngạc nhiên, “hắn thấy mặt hình như ươn ướt”. Trong tâm hồn chai sạn cảm xúc đã “hình như” cảm nhận được bản thân đang khóc. Có lẽ, Chí khóc thật. Khóc không chỉ vì đây là lần đầu hắn được người ta cho mà không cần rạch mặt ăn vạ, khóc còn vì hăn ăn năn về tội ác của mình. Giọt nước mắt như báo hiệu khao khát hoàn lương. Đó là lần thứ hai giọt nước mắt xuất hiện, sâu sắc và ám ảnh hơn cả. Tuy rằng chi tiết giọt nước mắt của Chí Phèo không được miêu tả quá tỉ mỉ song vẫn là một chi tiết có ý nghĩa đặc biệt. Nam Cao hẳn rất tin vào giọt nước mắt khi để cho nó xuất hiện đồng thời cùng sự thức tỉnh. Nếu không còn biết khóc, chắc lương tri của hắn sẽ mãi không trở lại. Nếu hắn không khóc được, người đọc chắc sẽ ám ảnh mãi trước sự tha hóa của con người. Giọt nước mắt báo hiệu và đánh dấu quá trình thức tỉnh của một con quỷ đang trên đường hoàn lương. Điều đó được chứng minh vào phần sau của tác phẩm khi Chí Phèo quyết tâm làm người lương thiện cho dù phải đánh đổi cả sinh mạng. Như vậy, giọt nước mắt chính là biểu hiện của tính người, sự hoàn lương và được nhà văn nâng lên tầm triết lí. Sống trong xã đen tối đầy rẫy áp bức, chà đạp nhân hình và nhân tính người ta tới cùng cực, quyền sống cơ bản cũng bị tước đoạt nhưng đâu đó trong lòng người vẫn âm ỉ ngọn lửa thiện lương mà chỉ cần một chút yêu thương nó sẽ bùng cháy rực rỡ. Giọt nước mắt làm tràn ly sự sống khiến một hình hài quỷ dữ lột xác để trở về làm người. Qua hình ảnh đầy tính nhân sinh này, Nam Cao đã ngợi ca bản chất tốt đẹp, ngợi ca khát vọng hoàn lương của con người. Giọt nước mắt của Chí Phèo trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao phần nào giúp người đọc tin tưởng hơn vào bản chất con người. Đồng thời, chi tiết này cũng thể hiện cái nhìn nhân đạo đầy mới mẻ và sâu sắc của nhà văn. Nam Cao không biết đã nhỏ bao giọt nước mắt cho kiếp đời tăm tối? Khi nhà văn mất đi, ta cũng chẳng thể đong đếm hết nước mắt người đời đã nhỏ xuống vì ông?
|