Phân tích văn bản Nỗi niềm tương tưI.Mở bài: -Dẫn dắt và giới thiệu tác phẩm. - Khái quát về thể loại truyện thơ Nôm
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý chi tiết I.Mở bài -Dẫn dắt và giới thiệu tác phẩm. - Khái quát về thể loại truyện thơ Nôm II. Thân bài 1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm: - Tác giả Vũ Quốc Trân (chưa rõ năm sinh, năm mất): + Quê quán: Hải Dương + Sinh sống tại Hà Nội từ giữa thế kỉ XIX - Đoạn trích “Nỗi niềm tương tư”: + Trích trong truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ”, gồm 678 câu. + Nội dung chính: Nỗi nhớ của Tú Uyên sau khi gặp Giáng Kiều. 2. Phân tích tác phẩm: a. Nỗi nhớ trong tâm hồn: - “ngơ ngẩn ra về”: Tú Uyên vừa đi về vừa nhớ nhung cô gái. - “Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên”: đèn dầu cạn nhưng không buồn thắp, nhớ đến không ngủ được. - “Nỗi nàng canh cánh nào quên/Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!”: + Từ láy “canh cánh, quanh quẩn” giàu sức gợi. + Nỗi nhớ thường trực bên cạnh con người. - “Bướm kia vương lấy sầu hoa/Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh”: + Cảnh vật cũng buồn, nhớ như tâm trạng con người. + Hình ảnh bướm, hoa ước lệ tượng trưng. b. Nỗi nhớ được thể hiện trong hành động: - Điệp ngữ “Có khi”: vòng thời gian tuần hoàn, con người quẩn quanh với nỗi nhớ. - “Có khi gảy khúc đàn tranh…Văn Quân lòng nào”: + Gảy đàn để quên đi nỗi nhớ nhưng lại càng nhớ hơn. + Nhắc đến điển tích Tương Như - Văn Quân để thể hiện nỗi nhớ tha thiết. - “Có khi chuốc chén rượu đào…lại gây giọng tình”: + Uống rượu để khuây khỏa và giãi bày tình cảm bằng chén rượu đầy. + Nỗi nhớ như biến thành hương dâng lên, càng uống rượu lại càng nhớ nhung hơn. - “Có khi ngồi suốt năm canh…sông Tương khôn hàn”: + “năm canh”: khoảng thời gian dài. + Tú Uyên ngồi nhớ Giáng Kiều lâu đến mức tiếng mõ, tiếng chuông vang lên mà không để ý. + “Lửa tình dễ đốt: tình cảm dễ nảy sinh. + Điển tích sông Tương diễn tả tình yêu mãnh liệt, không thể thay đổi. - Có đêm ngắm bóng trắng tàn…trận nhàn bay khuya”: + “bóng trăng tàn: Sự cô đơn, lẻ loi. + Cặp từ đối lập “sớm” - “khuya”: Nỗi nhớ lặp đi lặp lại. c. Nỗi nhớ khi đối diện với chính mình: - “Ngổn ngang cảnh nọ tình kia…đã đề với ai!: Không biết chia sẻ cùng ai. - “Vui xuân chung cảnh một trời...một người tương tư”: Lời trách cứ, than vãn khi ôm tương tư một mình. 3. Tổng kết nội dung, nghệ thuật: - Nội dung: Đoạn thơ đã diễn tả nỗi nhớ nhiều cung bậc, khát khao hạnh phúc lứa đôi, niềm hy vọng vào tình yêu của chàng thư sinh Tú Uyên sau khi gặp Giáng Kiều. - Nghệ thuật: + Thể thơ lục bát truyền thống. + Hệ thống các từ láy + Các điển tích điển cố. + Hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng trưng. III. Kết bài - Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. - Cảm nghĩ của em về tấm chân tình của chàng thư sinh nghèo Tú Uyên Bài tham khảo Mẫu 1 Truyện thơ Nôm đóng một vai trò quan trọng trong nền văn học Việt Nam, thể hiện tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. Bên cạnh những tác phẩm như “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), “Truyện Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu) thì “Bích Câu kì ngộ” cũng là một tác phẩm truyện thơ Nôm đặc sắc, kể về mối tình giữa chàng Tú Uyên và tiên nữ Giáng Kiều. Đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” cho thấy tâm trạng của Tú Uyên sau khi gặp được tiên nữ ở hội chùa Ngọc Hồ. Khác với một số truyện thơ Nôm lấy chủ đề/bối cảnh Trung Hoa, “Bích Câu kì ngộ” là một truyện thơ Nôm thuần Việt. Cái tên “Bích Câu” trong nhan đề chính là một địa chỉ văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa. Nơi đây thường được các vua chúa ghé thăm, tập trung nhiều văn nhân sĩ tử. Đọc tác phẩm, ta có thể bắt gặp những câu thơ miêu tả thành Thăng Long đẹp như thơ như họa: “Xanh xanh dãy liễu, ngàn thông Cỏ đan lối mục, rêu phong dấu tiều Một vùng non nước đìu hiu Phất phơ gió trúc, dặt dìu mưa hoa Triều Lê đương hội thái hòa Có Trần công tử tên là Tú Uyên” Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp bao giờ cũng là phông nền hoàn hảo để các nhân vật xuất hiện. Chàng Tú Uyên thực chất là một thư sinh nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Nhờ siêng năng đèn sách mà chàng cũng trở thành một văn nhân có tiếng ở Bích Câu. Khi đi chơi hội xuân ở chùa Ngọc Hồ, chàng gặp được người thiếu nữ đẹp tuyệt trần nhưng chưa kịp ngỏ lời làm quen thì cô gái đã biến mất. Từ đó, Tú Uyên đem lòng tương tư người đẹp. Đây là khởi nguồn cho mối tình đẹp giữa Tú Uyên - Giáng Kiều về sau. “Lần trăng ngơ ngẩn ra về Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên Nỗi nàng canh cánh nào quên Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!” Câu thơ đầu của đoạn trích miêu tả cảnh tượng Tú Uyên ra về khỏi hội chùa. Ánh trăng sáng chiếu rọi từng bước chân chàng thư sinh si tình. Cách nói “ngơ ngẩn ra về” cho thấy Tú Uyên vừa bước đi vừa không ngừng nhớ nhung cô gái. Chàng choáng ngợp bởi vẻ kiều diễm của nàng đến mức như thẫn thờ như một kẻ mất hồn. Ca dao dân gian xưa cũng từng dùng từ “ngơ ngẩn” để diễn tả nỗi nhớ người yêu: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, Nhớ ai ai nhớ, bây giờ nhớ ai?” Nỗi nhớ người yêu, người tình trong mộng bao giờ cũng là nỗi nhớ da diết, cháy bỏng nhất. Có biết bao tác phẩm văn học từ văn học dân gian đến văn học viết đã diễn tả nỗi nhớ ấy nhưng nỗi nhớ của chàng Tú Uyên vẫn mang màu sắc riêng ấn tượng. Sự nhớ nhung ấy không chỉ theo bước chàng trên đường về mà còn trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí, ảnh hưởng đến những sinh hoạt thường ngày của chàng. Nếu “Truyện Kiều” có chàng Kim Trọng “Bút se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan” thì “Bích Câu kì ngộ” cũng có một Tú Uyên “Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên”. Tú Uyên si mê Giáng Kiều đến mức đèn dầu đã cạn mà không buồn thắp lên, trằn trọc đêm khuya không thể ngủ. Hai từ láy “canh cánh” và “quanh quẩn” gợi liên tưởng nỗi nhớ bao trùm khắp không gian, lúc nào cũng thường trực bên cạnh con người. Nỗi nhớ bỗng trở thành một vật hữu hình, khiến cõi lòng Tú Uyên nặng trĩu. Từ chỗ không thể yên giấc, Tú Uyên còn tưởng tượng ra dường như Giáng Kiều vẫn đang quanh quẩn đâu đây. Hình bóng nàng tiên vừa gần vừa xa, biết khi nào mới được gặp lại? Câu thơ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của đại thi hào Nguyễn Du rất thích hợp trong hoàn cảnh của Tú Uyên. Nỗi nhớ được đẩy lên một mức độ cao hơn khi Tú Uyên nhìn đâu cũng thấy mênh mang nỗi nhớ: “Bướm kia vương lấy sầu hoa Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh” Cánh bướm lượn, bông hoa thắm trong vườn sao mà buồn bã, u sầu đến thế? Cảnh vật nhuốm màu tâm trạng. Những hình ảnh hoa, bướm giàu tính ước lệ tượng trưng diễn tả một tình yêu, nỗi nhớ vừa đẹp đẽ, xốn xang lại vừa man mác buồn. Từ “buồn tênh” bộc lộ một cách trực tiếp tâm trạng của Tú Uyên, cho thấy sự trào dâng của niềm nhớ thương. Dường như ý thức được sự xâm chiếm của nỗi nhớ trong tâm hồn, Tú Uyên bèn tìm đến những hoạt động khác để xua tan nỗi nhớ. Điệp từ có được lặp lại bốn lần, tạo hành điệp khúc nhớ nhung dâng lên tầng tầng lớp lớp, đồng thời diễn tả sự cố gắng, loay hoay của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ: “Có khi gảy khúc đàn tranh Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân Cầu hoàng tay lựa nên vần Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào” Chàng gửi gắm nỗi lòng mình vào tiếng đàn tranh tha thiết, mong ước nàng sẽ nghe thấy tiếng đàn mà hiểu được tấm chân tình. Thế nhưng, nghịch lí thay, càng chơi đàn thì Tú Uyên lại càng thấy nhung nhớ. Từ láy “ngao ngán” thể hiện rõ tâm trạng chán chường, ủ ê khi không có người đẹp kề bên. Tác giả sử dụng điển tích điển cố về khúc đàn cầu hôn của Tương Như - Văn Quân để diễn tả chân thực, sâu sắc tình cảm của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Dù chỉ mới gặp nàng thoáng chốc nhưng tình yêu dành cho nàng có thể sánh với tình yêu đi vào sử sách thời Hán. Tiếng đàn của ta cũng giống như tiếng đàn Tương Như gảy thời xưa, liệu nàng có thấu tỏ lòng này như nàng Văn Quân đã làm? Hết gảy đàn, Tú Uyên lại tìm đến men rượu cho khuây khỏa: “Có khi chuốc chén rượu đào Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy Hơi men không nhấp mà say Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình” Động từ “chuốc” cho thấy Tú Uyên không chỉ nhấp môi một, hai chén rượu mà đã uống rất nhiều. Bữa tiệc chưa tàn mà chén rượu kết giao đã đầy. Tú Uyên muốn uống chén rượu kết giao với Giáng Kiều. Hóa ra chàng thư sinh không say rượu mà là say tình, say đắm người con gái đẹp. Câu thơ “Hơi men không nhấp mà say/Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình” đã biểu lộ một cách thật độc đáo niềm tương tư này. Nỗi nhớ da diết, đằm sâu, biến thành hương dâng lên ngào ngạt. Càng uống rượu chàng lại càng nhớ nhung hơn. Là chàng nghe thấy trong hơi men có cả tiếng của nàng hay chàng muốn mượn rượu để ngỏ lời tỏ tình với nàng? Dù ta hiểu theo nghĩa nào thì nỗi nhớ trong câu thơ vẫn thật nồng nàn! “Có khi ngồi suốt năm canh Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương Lặng nghe những tiếng đoạn trường Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn” Nỗi nhớ mới xuất hiện gần đây mà đã khiến toàn bộ không gian, thời gian của chàng. “năm canh” là khoảng thời gian dài đằng đẵng, Tú Uyên đã ngồi ngóng đợi tình yêu của mình lâu đến mức tiếng mõ quyên đã điểm, chuông kình đã vang lên mà chẳng hay. Trong khung cảnh ấy, chàng bỗng nghe thấy “những tiếng đoạn trường”. “tiếng đoạn trường” ở đây chính là tiếng khóc của ai đó vang lên thê thiết, tưởng như đau đến đứt từng khúc ruột. Tú Uyên nghe âm thanh ấy mà nhớ đến điển tích sông Thương. Khi Vua Thuần mất, hai người vợ Nga Hoàn và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương. Người xưa còn lấy sông Tương để đo lòng nỗi nhớ: “Sông Tương ai gọi rằng sâu Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta Sông Tương sâu hãy còn có đáy Bệnh tương tư không bãi không bờ Đầu sông chàng đợi chàng chờ Nào hay thiếp đợi hững hờ cuối sông” Có thể thấy, không chỉ những người phụ nữ mà cả nam nhân cũng bị nỗi nhớ dày vò. Tú Uyên đã lấy hình ảnh sông Tương - một biểu tượng của nước mắt, nỗi nhớ, sự chia ly, chờ đợi để diễn đạt tình cảm của mình dành cho Giáng Kiều. Căn bệnh tương tư chẳng chừa một ai chính là như thế! Ngọn lửa tình “dễ đốt” nhưng khi bùng lên mạnh mẽ thì khó lòng dập tắt! “Có đêm ngắm bóng trăng tàn Tiếng chim hót sớm, trận nhàn bay khuya” Tú Uyên ngồi ngắm trăng, hy vọng tìm được chút tin tức của Giáng Kiều trong nỗi nhớ bủa vây, giam hãm. Trăng của chàng không phải là “Vầng trăng vằng vặc giữa trời” của lời thề nguyền chung thủy, biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi tròn đầy mà là “bóng trăng tàn” đơn chiếc, lẻ loi. Điệp ngữ “Có khi” kết hợp với cặp từ đối lập “sớm” - “khuya”gợi khoảng thời gian tuần hoàn, đóng kín và tâm trạng bí bách, tù túng của con người. Cuối cùng, sau khi đã hướng ra bên ngoài cảnh vật, Tú Uyên quay trở lại đối diện với chính mình: “Ngổn ngang cảnh nọ tình kia Nỗi riêng, riêng biết, dã đề với ai! Vui xuân chung cảnh một trời Sầu xuân riêng nặng một người tương tư” “Ngổn ngang” tức là tâm trạng bẽ bàng, buồn bã vì nhìn đâu cũng thấy nhớ thương. Nhớ nhung, yêu thương là thế nhưng hiện thực lại là “Nỗi riêng, riêng biết, dã đề với ai!”. Vì không có người để giãi bày nên nỗi nhớ thành một khối đóng lại trong tâm hồn Tú Uyên. Chàng hồi tưởng lại khung cảnh vui xuân và thấm thía tình cảnh cô đơn, sầu bi hiện tại. Câu thơ cuối vừa thể hiện tình cảm cháy bỏng vừa hư lời trách móc yêu. Cùng chung niềm vui nô nức ngày hội xuân, cớ sao giờ đây chỉ một người ôm tương tư? Như vậy, đoạn thơ đã diễn tả nỗi nhớ đa tầng, nhiều cung bậc của chàng thư sinh Tú Uyên sau khi gặp Giáng Kiều. Nỗi nhớ ấy là biểu hiện cho khát khao hạnh phúc lứa đôi. niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Để diễn tả chân thực, tinh tế cảm xúc thiêng liêng ấy, tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, hệ thống các từ láy giàu tính biểu đạt, các điển tích điển cố, những hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng trưng. Viết về tình yêu, nỗi nhớ giữa những các văn nhân tài tử với những bậc quốc sắc thiên hương không phải là điều hiếm trong văn học trung đại nhưng “Nỗi niềm tương tư” vẫn mang màu sắc riêng độc đáo. Quả thực, “Mối tình Tú Uyên - Giáng kiều tuy diễm tình nhưng trong sáng lại đậm tình nghĩa gia đình. Truyện tiên mà lại thực, góp phần giáo dục và làm tươi mát tâm hồn niên thiếu.” Bài tham khảo Mẫu 2 “Bích câu kì ngộ” là câu chuyện thơ Nôm nổi tiếng với thể thơ lục bát uyển chuyển, nói về chuyện tình yêu giữa chàng Tú Uyên và nàng tiên nữ Giáng Kiều. Trong đó nổi bật là đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” kể về khởi nguồn thứ tình yêu đầy mộng mị đó, đoạn trích diễn tả tâm trạng tương tư của tú Uyên sau khi gặp được người đẹp ở chùa Ngọc Hồ. Tú Uyên là một thư sinh nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Có dịp chàng đến chơi Bích Câu, thấy phong cảnh đẹp quá mà quyết định làm nhà ở đấy ngày đêm đèn sách học hành. Một hôm nhân dịp trời Xuân lay động, Tú Uyên đi chơi hội chùa Ngọc Hồ. Chàng nhặt được một chiếc “lá hồng” có đề câu thơ. Ngay lúc chàng định họa lại thì bỗng dưng xuất hiện một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần trước cửa tam quan, chàng cứ thế mà đi theo bóng người thiếu nữ cho đến Quảng Văn thì không thấy tung tích thiếu nữ đó đâu nữa. Khi trở về nhà, chàng đem lòng thương nhớ, tương tư bất kể ngày lẫn đêm: “Lần trăng ngơ ngẩn ra về, Ta có thể thấy được nét si tình ở chàng Tú Uyên, chỉ vì một giây trông thấy, mà dường như chàng đã cả một đời nhớ thương. Chàng si mê nàng đến nỗi “ngơ ngẩn”, đến nỗi đèn thông cháy đã cạn mà chàng vẫn thao thức chưa ngủ được “giấc hòe chưa nên”. Chàng nghĩ về người con gái xinh đẹp đó phải chăng là tiên nữ, biết bao giờ mới được gặp lại. Nỗi nhớ người trong mộng không chỉ được thể hiện ở suy tư của chàng thư sinh mà còn được bộc lộ, thể hiện bằng cử chỉ: “Có khi gảy khúc đàn tranh, Từ “có” lặp đi lặp lại 4 lần thể hiện những hành động của Tú Uyên khi không thể không nghĩ về người thiếu nữ đó. Chàng nhớ nàng chỉ nghĩ thôi chưa đủ, phải “gảy nên khúc đàn tranh” mong nàng nghe được tấm chân tình này, giống như cô gái Văn Quân khi nghe được tiếng đàn “Cầu hoàng” của Tương Như nên phải lòng đi theo. Phải mượn men say của “chén rượu đào” để thổ lộ tâm tư thầm kín hay chính là “mượn rượu để tỏ tình”. Tú uyên mong được uống với nàng chén “ngọc giao” để kết duyên đôi lứa. Lúc này chàng say nhưng lại không phải say rượu, cơn say này được ví như “mùi nhớ” hay chính là say ân tình với nàng tiên nữ. Chàng còn phải “ngồi suốt năm canh” để nghe những “tiếng đoạn trường”, vì không biết bao giờ mới có thể gặp được người thương nên chàng nhớ mong, đau đớn như đứt từng khúc ruột. Bởi vậy mới thấy tình cảm của Tú Uyên dành cho người thiếu nữ đó nhiều đến nỗi nào, chỉ cần một ánh mắt mà đã làm con người chàng đắm say như “lửa tình dễ đốt”. Đặc biệt, tác giả dựa vào truyền thuyết hai người vợ Nga Hoàn và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương Giang khi Vua Thuần mất để dùng từ “sông Tương” ví với nước mắt, nước mắt ở đây là nước mắt của Tú Uyên khi để lạc mất người mình hằng mong nhớ, lạc mất đi cả cuộc đời. Chàng còn ngồi “ngắm bóng trăng tàn”, hy vọng về một chút tin tức của nàng. Nỗi nhớ đó dù đã được bộc lộ nhưng vẫn “ngổn ngang” không ngơi: “Ngổn ngang cảnh nọ tình kia, Dù đã mượn “khúc đàn tranh”, mượn “chén rượu đào” nhưng tình nồng đâu biết “đã đề với ai? Dù cảnh Xuân có vui nhưng không gặp được nàng thì vơi Tú Uyên vẫn chỉ có một “Sầu xuân riêng nặng một người tương tư. Tình cảm của Tú Uyên dạt dào, mãnh liệt và thủy chung giống như Xuân Diệu đã từng viết trong bài thơ “Tình thứ nhất”: “Thôi thôi nhé, hoa đã sầu dưới đất Với lời thơ kết hợp giữa tự sự và trữ tình, đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” cho ta thấy được nỗi niềm tương tư và khát vọng tình yêu đôi lứa cháy bỏng của chàng thư sinh Tú Uyên. Có phải chăng một tình yêu cuồng nhiệt, hết lòng hết dạ là đáp số chung cho những ai đang chìm đắm trong mộng tình, có phải chăng từng lời thơ như muốn nói hộ tấm chân tình đó! Bài tham khảo Mẫu 3 Trong văn học Việt Nam, truyện thơ Nôm đã có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Vũ Quốc Trân, một nhà văn và nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ phát triển văn học Nôm, đã để lại nhiều tác phẩm quan trọng, góp phần trong việc phát triển nền văn học truyền thống. Trong số đó, tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ đáng chú ý với sự xuất hiện của đoạn trích Nỗi niềm tương tư, tạo nên một hình ảnh đẹp và sâu sắc về tình yêu và nhớ mong. Trong đoạn trích này, tác giả đã sử dụng những từ ngữ tinh tế để miêu tả nỗi nhớ trong tâm hồn của nhân vật chính là Tú Uyên. Anh chàng không thể quên được cảnh tượng của người con gái tuyệt mỹ mà anh gặp ở chùa Ngọc Hồ. Tác giả mô tả tâm trạng của Tú Uyên như sau: "Ngơ ngẩn ra về", đèn thông đã cháy cạn nhưng anh vẫn thao thức, không thể ngủ được. Nỗi nhớ của Tú Uyên không chỉ là một ý nghĩ mà nó còn hiện hữu trong từng cử chỉ và hành động của anh. Đoạn trích Nỗi niềm tương tư cho thấy sự rõ ràng của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ. Tác giả sử dụng điệp ngữ "Có khi" để mô tả những hành động mà Tú Uyên thực hiện khi nghĩ về người con gái đó. Anh ta gảy khúc đàn tranh và chuốc chén rượu đào để thể hiện tình cảm của mình. Những hình ảnh này mang ý nghĩa biểu trưng, tượng trưng cho nỗi nhớ và khát vọng tương tư của Tú Uyên. "Có khi gảy khúc đàn tranh, Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân. Cầu hoàng tay lựa nên vần, Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào! Có khi chuốc chén rượu đào, Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy. Hơi men không nhấp mà say, Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình. Có khi ngồi suốt năm canh, Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương. Lặng nghe những tiếng đoạn trường, Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn. Có đêm ngắm bóng trăn tàn, Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn bay khuya." Tuy nhiên, Tú Uyên không biết chia sẻ, không biết nói cho ai nghe về những tâm tư của mình. Tác giả sử dụng từ "Ngổn ngang" để miêu tả trạng thái của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ. Anh cảm thấy cô đơn trong nỗi nhớ của mình. Dù có những cảnh vui xuân chung, nhưng nỗi nhớ trong lòng anh vẫn nặng. Tú Uyên trong đoạn trích này. Điều đó thể hiện rằng tình cảm tương tư của Tú Uyên không được đáp lại và anh cảm thấy một cách cô đơn trong nỗi nhớ. Tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ của Vũ Quốc Trân là một trong những tác phẩm quan trọng trong văn học Nôm và đã góp phần quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ và văn hóa dân tộc.
|