Viết bài văn phân tích tác phẩm Thương vợ lớp 81. Mở đoạn: Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương: một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi. Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý chi tiết 1. Mở đoạn: Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương: một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi. Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú. 2. Thân đoạn: a. Giới thiệu về khoa thi năm Đinh Dậu - Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”. Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác. Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định. ⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định. - Lí do: “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không dư. ⇒ Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi chồng ⇒ hoàn cảnh éo le trái ngang. Cách dùng số đếm độc đáo “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình cũng là đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ. ⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con. b. Thái độ, tâm trạng của nhà thơ - Lặn lội thân cò khi quãng vắng: có ý từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng sáng tạo hơn nhiều (cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò): “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tính khái quát. “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu. ⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ. - “Eo sèo… buổi đò đông”: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu. - Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú. ⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú. c. Hai câu luận - “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu. - “nắng mưa”: chỉ vất vả - “năm”, “mười”: số từ phiếm chỉ số nhiều - “dám quản công”: Đức hi sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại. ⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú. d. Hai câu kết - Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả. - Tự ý thức: “Có chồng hờ hững”: Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời. - Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng. → Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc. 3. Kết đoạn: Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công nội dung của tác phẩm. Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội hôm nay. Bài siêu ngắn Mẫu 1 Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở trong nền thi ca Việt Nam. Tuy nhiên, thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của người chồng đã ít, nay lại viết “tế sống” người vợ còn hiếm hoi hơn. Và Trần Tế Xương là người đàn ông đã đưa hình ảnh người vợ của mình vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trào phúng. Trần Tế Xương hay còn gọi là Tú Xương, giống trong buổi giao thời đầy nghèo khổ nửa thực dân nửa phong kiến. Ông là người thông minh ham học có tài làm thơ nhưng lại lận đận trong thi cử. Ông nổi tiếng trong hai mảng thơ trữ tình và trào phúng có pha chút giọng cười châm biếm, sắc sảo bắt nguồn từ tâm huyết với dân với nước với đời. Tú Xương đã từng được mệnh danh là nhà thơ trào phúng xuất sắc nhất của văn học Việt Nam cuối thể kỷ XIX. Những tác phẩm ông để lại chủ yếu là thơ Nôm và có nhiều bài rất đặc sắc, có thể nói là tuyệt mỹ cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Minh chứng rõ nhất là bài thơ Thương vợ. Tú Xương đã bộc lộ tình yêu thương, sự trân trọng và cả nỗi ăn năn trước sự hi sinh của vợ trong bài thơ này: “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Mạch cảm xúc của thi phẩm dần được mở ra với bức tranh toàn cảnh về nỗi khó nhọc lo toan của bà Tú. Câu vào đề như để giới thiệu hoàn cảnh lam lũ vất vả qua cách nêu thời gian, địa điểm. Tác giả sử dụng từ “quanh năm” – cụm từ chỉ một khoảng thời gian rất dài, lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên, tác giả đã diễn tả được nỗi vất vả triền miên của bà Tú trải hết ngày này qua tháng khác, mặc kệ nắng mưa. Chỉ có thế cũng đã đủ để lại trong lòng độc giả một hình ảnh tần tảo, đầu tắt mặt tối của bà Tú. Thế nhưng chưa dừng lại ở đó, cách cân đo đong đếm thời gian như thế còn góp phần làm bật lên cái không gian buôn bán của bà thông qua hình ảnh “mom sông”. Địa thế “mom sông” đầy trắc trở hiểm nguy khôn lường lại là chỗ làm ăn buôn bán hàng ngày của người phụ nữ. Thời gian dài đằng đặng kết hợp với địa điểm trắc trở càng tôn lên hình ảnh bà Tú tảo tần, hết lòng hết sức vì miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Với giọng thơ hóm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng, Tú Xương đã làm nên một câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến đã biến những người đàn ông vốn là trụ cột trong gia đình thành kẻ vô tích sự, sống dựa dẫm và cả đời “ăn lương vợ”. Tấm lòng thương vợ của Tú Xương đối với cả thời quá khứ và hiện tại vẫn là tấm gương sáng cho bao người. Bài thơ giữ nguyên giá trị cùng với ý nghĩa nhân văn sâu sắc về sự yêu thương, trân trọng và thấu hiểu những nỗi đau, sự hi sinh của người phụ nữ cho gia đình. Đồng thời đó cũng là tiếng nói phê phán sự bất công của xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng. Như vậy, bài thơ Thương vợ là một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Với chất thơ bình dị mà trữ tình mang chút trào phúng, Tú Xương đã thành công trong việc khắc họa một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ, vừa mộc mạc chất phác, vừa cứng rắn mạnh mẽ. Vì vậy quả thật Tú Xương chính là thi nhân viết thơ về vợ hay và cảm động nhất. Ông đã để lại cho đời những áng văn chân thành xúc động và đầy giá trị. Bài siêu ngắn Mẫu 2 “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng.” Tác phẩm bắt đầu với hai câu thơ mở ra bức tranh toàn cảnh về nỗi khó nhọc lo toan của bà Tú, bức tranh ấy được vẽ bằng một bảng màu đặc biệt, đó là thứ màu mang tên cảm xúc, có màu của yêu thương, của sự tri ân, của sự kính yêu bất tận, ẩn sâu trong đó là màu của sự tủi thân, tự giễu chính mình. Tú Xương đã dùng những từ ngữ mang tính gợi nhắc về thời gian, địa điểm để vẽ nên hoàn cảnh khó nhọc của bà Tú. Thi sĩ đã dụng từ "quanh năm" để nói về thời gian mà bá Tú phải làm việc, nó là khoảng thời gian dài vô tận, là vòng lặp đi lặp lại của thời gian, của tự nhiên, nhằm diễn tả được nỗi vất vả triền miên của bà Tú trải hết ngày này qua tháng khác, mặc kệ nắng mưa. Và từ ngữ gợi thời gian ấy cũng cho ta thấy những sương gió, mệt mỏi mà bà Tú phải chịu đựng, nó còn cho ta thấy một vòng lặp kín chẳng hề có một kẽ hở nào cho sự nghỉ ngơi, mà sau tất cả, bà Tú vẫn phải quẩn quanh công việc bán buôn của mình. Mà cái việc bán buôn ấy cũng chẳng hề dễ dàng, đấy là công việc đòi hỏi sự tháo vát, khéo léo trong cách ăn nói, nhưng nó lại rất chênh vênh, rất dễ thua lỗ, thất thu. Tất cả nét vẽ ấy đủ để lại trong lòng người đọc một hình ảnh tần tảo, đầu tắt mặt tối của bà Tú. Thế nhưng chưa dừng lại ở đó, không gian buôn bán của bà được gợi lên thông qua hình ảnh "mom sông". Địa thế "mom sông" đầy trắc trở hiểm nguy khôn lường lại là chỗ làm ăn buôn bán hằng ngày của người phụ nữ. "Mom sông" ấy còn gợi cho ta sự bấp bênh, hình ảnh đó có thể vừa là gợi sự bấp bânh của cái nghề bán buôn, nguy hiểm của địa thế, cũng làm cho ta liên tưởng đến sự bấp bênh của cuộc đời bà Tú cũng như người phụ nữ xưa, là cánh hoa bị làn nước đưa đẩy đến nơi vô định, là chiếc lá mặc kệ làn gió nhẹ cuốn bay. Thời gian dài đằng đặng kết hợp với địa điểm trắc trở càng tôn lên hình ảnh bà Tú tần tần, hết lòng hết sức vì miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Với giọng thơ hóm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng, Tú Xương đã làm nên một câu thơ như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến đã biến những người đàn ông vốn là trụ cột trong gia đình thành kẻ vô tích sự, sống dựa dẫm và cả đời "ăn lương vợ". Đôi vai của bà Tú đã nặng nay lại càng nhân lên những nỗi gian truân khi phải "bất đắc dĩ" trở thành trụ cột trong gia đình. Từ "đủ" vừa biểu thị chất lượng vừa biểu thị số lượng, việc bán buôn của người phụ nữ chỉ vừa đủ ăn cho gia đình, chẳng hề dư giả cũng chẳng hề thiếu thốn. Bên cạnh đó cách đặt hai từ số đếm "năm" và "một" tưởng chừng khập khiễng nhưng lại hóa độc đáo và mới lạ, nó cho thấy trên vai bà Tú không phải là gánh nặng miếng ăn của bảy con người mà là phải "vác" cả mười một người trên lưng. Tú Xương tự chế giễu mình khi so sánh bản thân với năm người con, gánh nặng đức chồng bằng cả năm người con. Ông tự cho mình là "đứa con đặc biệt", để ngầm nâng cao vị thế của người vợ lên một thứ bậc thiêng liêng. Hơn thế nữa, cấu trúc năm-một cùng từ "với" chất chứa bao nỗi hổ thẹn của người chồng phải sống dựa vào vợ. Hai câu mở đầu đã thể hiện được tất cả những đức tính cao đẹp của bà Tú: Chịu thương, chịu khó để nuôi đủ gia đình. Qua đó Tú Xương cũng khéo léo thể hiện sự biết ơn của mình, đồng thời còn là sự hổ thẹn khi phải đặt mình tương đồng với những đứa con thơ. Thật xót xa, ngậm ngùi biết bao cho một kiếp người là phái mạnh nhưng chẳng thể gánh vác một gia đình, phải sống nhờ vợ, dựa dẫm vào một người phụ nữ mảnh mai, bé nhỏ. Hai câu đề đã giới thiệu bức tranh lam lũ của "thân cò", đồng thời cũng thể hiện sự đảm đang, tháo vát, chịu đựng của người phụ nữ Việt Nam bao đời nay. Tất cả được vẽ bằng tình yêu thương và lòng tri ân của Tú Xương đối với người phụ nữ đã kết tóc se duyên, theo ông cả cuộc đời. Bài siêu ngắn Mẫu 3 “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền thảo. Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú lại là một người đàn bà: “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng” “Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “buôn bán ở mom sông”, nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước, nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời lắm cay cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”. Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,... chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia cảnh gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”. Có thể nói, hai câu thơ trong phần đề, Tú Xương ghi lại một cách chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, đảm đang của mình. Phần thực, tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. Ngôn ngữ thơ tăng cấp, tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng; đã “lặn lội” Lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh “con cò” cái cò trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông,..” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ: “Lặn lội thân cò nơi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông” “Eo sèo” là từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hồ, nước mắt giữa thời buổi khó khăn! Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt: “Một duyên hai nợ, âu đành phận, Năm nắng, mười mưa dám quản công.” “Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình. “Âu đành phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le. Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện một tài năng điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, thành ngữ và hình ảnh “thân Cò” … đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương. Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!” Trách mình “ăn lương vợ”, mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế! Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ nho mạt vận, lúc mà “Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co”, cho nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”. Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy: nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi! Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Ngôn ngữ thơ bình dị như là tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người buôn bán nhỏ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với “năm con, một chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. “Thương vợ’” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao đức tính tốt đẹp, hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam. Bài tham khảo Mẫu 1 Nói về thơ trào phúng không ai có thể bỏ qua Tú Xương, một giọng thơ châm biếm, đả kích sắc bén, quyết liệt và dữ dội hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: " Tú Xương nhìn như mảnh vỡ thuỷ tinh ". Nhưng Trần Tế Xương đâu là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa điển hình, giống như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chính là "chân trái", mà "chân phải" của ông là chất lãng mạn. Trân trọng khâm phục và nhớ về thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ vì người đời được lắng nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, đầy tình cảm, biết trọng nhân cách, với một nỗi đau thăm thẳm không nguôi. Buồn vì không có điều kiện để giúp đỡ một người nghèo, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: " Cha thằng nào có tiền không cho ". Mang nỗi đau tột cùng của một tri thức, ông chua chát: " Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! /Ngoảnh mặt mà nhìn cảnh này ". Đó là ngoài đời, còn trong nhà ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương " thương vợ ", có chồng vẫn phải đóng vai phụ, ông tự nhận cái sự " hờ hững " của mình. Chắc rằng các cụ ông ngày xưa phần lớn là thương vợ thương con, nhưng vì một quan niệm nào đấy, thường ngại bộc lộ tình cảm của người chồng, nhất là lại thể hiện tình cảm với người vợ một cách trực tiếp qua giấy trắng mực đen, qua văn chương thì lại càng ít. Thế kỉ XIX, có hai nhà thơ cùng người thành Nam, Nguyễn Khuyến và Tú Xương, đã không ngần ngại nói lên tình thương yêu của người chồng đối với vợ ngay khi các bà còn đang sống. Nhưng về chủ đề này, Thương vợ cua Tú Xương là bài thơ nổi tiếng hơn cả: "Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hy sinh và một người chồng luôn biết chia sẻ, yêu thương và trân trọng vợ rất mực. Hai câu thơ đầu giới thiệu về công việc của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bà: "Quanh năm buôn bán ở mom sông/Nuôi đủ năm con với một chồng". Buôn bán cũng là một nghề như bao nghề khác, người phụ nữ làm để kiếm tiền. Người xưa cũng coi đây là nghề độc nhất nếu muốn giàu có (phi thương bất phú) . Nhưng việc kinh doanh của bà Tú lại không được như thế. Chẳng có nhà hàng, cửa hiệu, khách sạn gì, mà chỗ bà "buôn bán" là ở "mom sông". Hai chữ "mom sông" đã gợi nên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở ven bờ, khi nước cạn thì được, nước dâng sẽ tan, có thuyền qua lại thì thành chợ không ngủ, cũng có thể chợ nhóm họp một lát vào buổi sáng hay buổi xế chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người bán rong, vốn liếng nhỏ nhoi, bấp bênh, tất nhiên thu nhập chẳng đáng là bao. Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không thể chịu đựng một hai ngày mà cứ làm "quanh năm". Chữ "quanh năm" gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tết, cũng có nghĩa là hết năm này sang năm nọ. Cái công việc vất vả ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả cuộc đời, nhưng nó chẳng thể giúp gia đình bà khấm khá hẳn lên để có việc khác nhàn hạ hơn hay phát triển nghề "buôn bán" ở một cấp độ cao hơn. Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì thấp, nhưng bà Tú vẫn có thể lo toan được cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà lại là "năm con với một chồng", "Năm con" là ít, nhưng dẫu sao cũng chấp nhận được, lo lắng cho chúng khi thiếu miếng ăn, manh áo. Nhưng ông chồng, là "một", tất nhiên là chi phí cho cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nhiều! Mỗi khi ông phải đi xa là tiền lưng gạo bị lại đổ lên vai vợ, chưa kể những khi đồng chè đồng rượu,..... Nhiều khoản chi tiêu như vậy nhưng lúc nào bà cũng lo "đủ ". Thật là đảm đang tháo vát quá, chiều chồng đến chừng nào! Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức: "Lặn lội thân cò khi quãng vắng/Eo sèo mặt nước buổi đò đông". Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc: "Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non/ ... Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao". Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình. Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời. Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt. Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông: "Một duyên hai nợ âu đành phận/Năm nắng mười mưa dám quản công". Trong mối quan hệ vợ chồng, duyên là cái căn nguyên từ trước, do đó, mà vợ chồng lấy được nhau hoặc lấy phải nhau. Từ ý nghĩa vừa nói, dân gian cũng đã làm ra một cặp khái niệm khác nhau: duyên và nợ (Một duyên, hai nợ, ba tình. Chồng gì anh, vợ gì tôi, đó là cái nghĩa chi đây. ..) . Như vậy trong dân gian " một duyên hai nợ " là ám chỉ sự bất hạnh của cuộc đời người con gái. Nhưng ở đây trong thế so sánh với câu dưới. Một duyên hai nợ trong câu thơ của Tú Xương đã có ý nghĩa khác hoàn toàn: một, hai không phải là số đếm nữa mà là số tính và số nhân: duyên chỉ có một mà nợ đến cả hai duyên thì ít mà nợ lại lớn. Bà Tú lấy được ông Tú nghĩ cho kỹ đó cũng là phúc. Ông cũng đỗ đạt hơn người bình thường đôi chút. Chỉ có thế thôi. Chứ nếu ông là chồng mà lại làm dở ương, khoán trắng. Tiền bạc phó cho con mụ làm; nói ông quan ấy ăn lương vợ. .. thì quả là một thứ nợ đời. Duyên thì ít mà nợ lại lớn là như thế. Cái vất vả, cực nhọc của lặn lội thân cò ở câu thơ trên đến đây đã được đẩy lên thành cái vất vả, gian truân của một số phận là định mệnh của cả một kiếp người thì nặng nề và cay đắng biết bao nhiêu. Đã là số phận thì phải âu đành. Âu có nghĩa là khổ mà đành cũng là phận. Một câu thơ mà cả hai lần chịu đựng. Vì cam chịu nên Năm nắng mười mưa dám quản công là vậy. Cho dầu nắng mưa đến mấy (Năm nắng mười mưa) bà cũng không một chút ngại ngần và chẳng tiếc chi công sức của mình. Dám quản công là chẳng những chỉ có tác dụng như đã nêu mà còn cho thấy tính gìn giữ. Nổi lên thêm từ hai câu thơ là sự hy sinh, chịu đựng thầm lặng của người hiền phụ. Đây cũng là phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay. Đã thấy tấm lòng thương vợ của thi nhân là thấm thía và sâu sắc biết bao. Sau cùng, hai câu kết của bài thơ là một lời chửi rủa: "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/ Có chồng hờ hững cũng như không!" Thác lời của bà Tú, nhà thơ đã chửi rủa chính cái bạc bẽo và cái vô tích sự của người chồng nghĩa là của chính mình. Tất cả nỗi thương vợ cùng với sự bất lực giận mình, giận đời đã lắng đọng trong tiếng chửi rủa đầy day dứt, xót xa kia. Nhưng thực sự ông có bạc bẽo, hờ hững với vợ mình không? Điều này khó trả lời. Nhưng ngẫm cho cùng, bài thơ này đã giải đáp phần nào câu hỏi ấy. Hơn nữa, tự coi mình cũng như không cũng như một người thừa, một kẻ hờ hững sống đấy mà cũng như đã chết thì tuy đó là lời rủa mình nhưng cũng là lời ca ngợi và đề cao công ơn của vợ. Tuy là một lời chửi rủa nhưng hai câu thơ kết vẫn đượm thắm màu sắc vui đùa. Nhà thơ phán xét tự trách mình cũng là cách biểu hiện sự thương cảm sâu xa với vợ. Ông nói ăn ở bạc nhưng lòng ông không bạc, không hờ hững với bà chút nào cả. Như vậy Thương vợ đúng là một bài thơ hay cho ta hình dung được nỗi lòng thương yêu mênh mông chân thành và sâu sắc của nhà thơ đối với người vợ chịu thương, chịu khó, hi sinh, khó nhọc, vất vả một cách lặng thầm vì gánh nặng chồng con. Với một bài thơ trữ tình giàu hình ảnh, nhạc điệu, ngôn ngữ tự nhiên, dân dã, nhà thơ không những đã thể hiện được tình cảm ấy của mình mà còn tạo nên được một bức chân dung bất hủ có tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với đầy đủ các đức tính đáng quý là đảm đang, cần cù, nhẫn nại, hi sinh. Bài tham khảo Mẫu 2 Tú Xương là thi sĩ trào phúng bậc thầy của nền văn học Việt Nam. Ngoài những bài thơ châm biếm sắc nhọn, lấy tiếng cười làm phương tiện phê phán và đả kích vào bộ mặt xấu xí, suy đồi của cái xã hội thực dân nửa phong kiến thì ông cũng có một số bài thơ cảm động, mang chất bao nỗi niềm của một nhà nho nghèo nhưng thương vợ và tình đời sâu đậm. "Thương vợ" là bài thơ xúc động nhất trong các tập thơ trào phúng của Tú Xương. Nó là một bài thơ trữ tình, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình cảm thương yêu nồng ấm của tác giả đối với người vợ hiền. Những câu thơ đầu gợi nên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ vô cùng tần tảo, đảm đang. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ " hay lam hay làm, thắt lưng buộc que, xắn áo quai cồng, siêng chân nam đá chân chiêu, cùng tớ lo toan tất cả mọi chuyện " (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú cũng là một người đàn bà: "Quanh năm buôn bán ở mom sông " Quanh năm buôn bán " là cảnh làm ăn vất vả, hết ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, không có một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú "buôn bán ở mom sông", trên mỏm đất nhô cao, ba bề bao bọc sông nước, nơi kinh doanh là gò đất cheo leo. Hai chữ "mom sông" gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời lắm cay cực, vất vả bươn chải kiếm tiền, mới "nuôi đủ năm con với một chồng". Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm đồng tiền,.... chứ ai đếm "con" đếm "chồng". Câu thơ cũng ẩn chứa nỗi niềm chua xót của một gia cảnh gặp lắm khó khăn: đông con, người chồng đang phải "ăn lương vợ". Có thể nói, hai câu thơ trong bài này, Tú Xương khắc hoạ được một cách chân thực hình ảnh người vợ tảo tần, đảm đang của mình. Phần văn, tô đậm nét hơn chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đã "lặn lội" nơi chốn "thân cò khi quãng vắng". Ngôn ngữ thơ tăng cấp càng tô đậm nét hơn sự nhọc nhằn của người vợ. Câu chữ như những nét chấm phá, gam màu xen kẽ nhau, bổ sung và gia tăng; đã "lặn lội" nơi "thân cò", rồi còn "khi quãng vắng". Nỗi nhọc nhằn tìm quê ở " mom sông " tưởng như không bao giờ diễn tả hết được! Hình ảnh "con cò" cái cò trong ca dao xưa: " Con cò lặn lội bờ sông.... , Cái cò, cái vạc, cái nông, . . " được tái hiện trong thơ Tú Xương với hình ảnh " thân cò " mộc mạc, đã đem lại cho người xem bao liên tưởng xúc động về bà Tú, cũng như số phận nhọc nhằn, vất vả, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ: “Lặn lội thân cò nơi quãng vắng “Eo sèo” là từ láy tượng thanh chi sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn! Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt: “Một duyên hai nợ, âu đành phận, “Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình. “Âu đành phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le. Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện một tài năng điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, thành ngữ và hình ảnh “thân cò” … đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương.Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Trách mình " ăn lương vợ ", mà " ăn ở bạc ". Vai trò người chồng, người cha không giúp ích được gì, trái lại, họ càng " hờ hững " với gia đình. Lời tự trách sao mà chua xót vậy! Ta đã biết, Tú Xương có tài năng, nhưng công danh dang dở, thi cử trắc trở. Sống giữa một xã hội " dở Tây, dở ta ", công danh lận đận, lúc ấy " Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co ", cho nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách cuộc đời bạc bẽo. Ông không xu thời để được " tối rượu bia, sáng sữa bò ". Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm tư về cuộc đời đầy buồn khổ, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, yêu nước, thương dân và thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng như là thương mình vậy: sự đau đớn bất lực của nhà thơ khi cảnh đời đổi thay! Bài thơ " Thương vợ " được sáng tác theo thể thơ lục bát. Ngôn ngữ thơ bình dị như là câu chuyện mưu sinh nơi " mom sông " của những người dân buôn bán nhỏ lẻ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với " năm con, một chồng”) lại khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngày xưa) . Hình tượng thơ hàm súc vừa gợi cảm: yêu vợ, thương con, nghĩ về gia cảnh thêm nỗi đau cuộc đời. "Thương vợ" là bài thơ trữ tình nổi tiếng của Tú Xương kể về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với biết bao đức tính cao đẹp, hình ảnh bà Tú được nhắc lại trong bài thơ thật gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam. Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị. Bài tham khảo Mẫu 3 Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca. Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được: Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất. Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ. Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi: Quanh năm buôn bán ở mom sông. Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương: Lặn lội thân cò khi quãng vắng là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa ra từ lặn lội lên đầu câu, cách thay từ – thay từ con cò bằng thân cò, càng làm tăng nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn. Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú: Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng dặn con: Con ơi nhớ lấy câu này / Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua. “Buổi đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn, mè nheo, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong hoàn cảnh chen chúc làm ăn.Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương: tấm lòng xót thương da diết. Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát: Nuôi đủ năm con với một chồng. Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức: “Cơm hai bữa: cá kho rau muống – Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô” (Thầy đồ dậy học).Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ: Năm nắng mười mưa dám quản công. Ở câu thơ này, “nắng mưa” chỉ sự vất vả, “năm, mười” là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rối thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy. Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ. Về câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ. Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hy sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bản đối với người phụ nữ: “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xướng, phụ tuỳ” (chồng nói, vợ theo), thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao. Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách. Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.
|