Nêu cảm nhận sau khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hàNam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí - Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim.
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý I. Mở bài - Giới thiệu sơ lược tác phẩm Sông núi nước Nam và tác giả Lý Thường Kiệt. 1. Cảm nghĩ về câu thứ nhất: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” - Tác giả khẳng định người Nam phải ở nước Nam. - Vua Nam thì phải ở nước Nam. - Đã phân định rõ ràng về chủ quyền và lãnh thổ. 2. Cảm nghĩ về câu thứ hai: “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” - Tác giả khẳng định rằng chủ quyền này đã được định rõ ở sách trời. - Tác giả thể hiện được chân lí sống, chân lí lẽ thường tình. - Sự xâm lược của các nước khác là sai lầm. 3. Cảm nghĩ về câu thứ ba: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm” - Tác giả giận dữ và có thái độ khinh bỉ đối với kẻ thù. - Tác giả cho rằng địa phận nước ta tại sao dám xâm lăng. - Thể hiện sự căm thù giặc sâu sắc của tác giả. 4. Câu cuối cùng: “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” - Tác giả cảnh cáo rằng làm trái sách trời sẽ bị quả báo. - Khẳng định lại một lần nữa chủ quyền của mình. III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước Nam Bài mẫu Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí - Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim. Vì thế, nó tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập. Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tắc như sau: Nam quốc sơn hà Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Dịch thành: Sông núi nước Nam Sông núi nước Nam vua Nam ở Vằng vặc sách trời chia xứ sở Giặc dữ cớ sao phạm đến đây Chúng bay nhất định phải tan vỡ. (Theo Lê Thước - Nam Trân dịch) Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lý, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hống và Trương Hát (hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ đã ngân vang lên (Vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần). Nhưng dù là do thần linh hay con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và khí phách Đại Việt. Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà - Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thơ thể hiện rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự (mắt thần) của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay - chỉ có Bắc đế, chứ không thế có Nam đế. Hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Vì thế, khi xâm lược nước Nam, áp đặt được ách thống trị, chúng đã ngang nhiên trắng trợn biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc. Nền độc lập mà chúng ta giành lại được hôm nay thấm không ít máu của cha ông ta đã đổ suốt hơn một ngàn năm. Và nay nền độc lập ấy vẫn đang bị đe dọa bởi tư tưởng ngông cuồng kia. Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn từ của câu thơ. Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình: Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi đâu phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do “Trời” định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu ấn trong sách trời: Ai có thể thay đổi được?! Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lý thiêng liêng và cao cả: chân lý về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt. Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Thật là một khí phách kiên cường! Thay mặt cả dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh cáo bọn giặc xâm lược: Chúng bay phạm vào bờ cõi này, tức là chúng bay đã phạm vào sách trời; mà phạm vào sách trời, tức là làm trái với đạo lí trở thành kẻ đại nghịch vô đạo (nghịch lỗ), lẽ nào Trời đất dung tha. Mặt khác chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là phạm vào chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là dân tộc đó lại là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, có ý chí độc lập mạnh mẽ, vậy thì, sự thất bại sẽ là điều không thể tránh khỏi, thậm chí còn bị đánh cho tơi bời thủ bại hư. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ thật mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận- một đặc điểm của thơ ca thời Lí - Trần, khiến người đọc rưng rưng! Và ngàn đời sau, bài thơ vẫn là hồn thiêng sông núi vọng về.
|