Nước Đại Việt ta là một áng văn tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc sâu sắc. Hãy viết một đoạn văn (khoảng 10-15 câu) với câu chủ đề trên

Nước Đại Việt ta là một áng văn tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc sâu sắc. Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai

Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Cánh diều

Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý

1. Mở bài: Nêu tác giả, tác phẩm

2. Thân bài:

- Văn bản Nước Đại Việt ta là phần mở đầu của bài cáo. Tuy ngắn gọn nhưng đoạn trích nêu lên những tiên đề cơ bản, làm nổi bật những quan điểm tích cực, có ý nghĩa then chốt đối với nội dung của toàn bài.

- Tự hào về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc là điều hiển nhiên không thể chối cãi được:

+ Nền văn hiến lâu đời

+ Lãnh thổ rõ ràng

+ Lịch sử riêng

+ Phong tục tập quán riêng

+ Chế độ, chủ quyền riêng

->Nghệ thuật: Giọng điệu khảng khái, dõng dạc, tự tin

- Tự hào về những đấng anh hùng, hào kiệt dựng nước và giữ nước:

"Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau

Song hào kiệt thời nào cũng có "

- Tự hào về sức mạnh tư tưởng nhân nghĩa khiên cho quân xâm lược phải nhận thất bại thảm hại:

"Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã "

->Nghệ thuật: dẫn chứng hùng hồn, xác thực =>KĐ sức mạnh vô song của nhân nghĩa đã giúp ta đánh thắng mọi kẻ thù tàn bạo nhất

3. Kết bài: Tổng kết: "Bình Ngô đại cáo” là áng "thiên cổ hùng văn” khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.

Bài siêu ngắn

Nước Đại Việt ta là một áng văn tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc sâu sắc. Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Chỉ qua đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2) ta đã thấy rõ điều đó.Với tư cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định lí tưởng yêu nước, thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.

Bài mẫu 1

Nguyễn Trãi (1380-1422) là một nhà quân sự đa tài, một nhà chính trị sáng suốt, một nhà ngoại giao lỗi lạc hơn thế nữa ông còn được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới(1980). “Nước Đại Việt ta” chính trong bài “Bình Ngô đại cáo” được công bố vào đầu năm 1428, sau khi quân ta đại thắng quân Minh. Tác phẩm này được coi là áng thiên cổ hùng văn có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nhân dân Đại Việt ta. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc.

Thật vậy! Ngay từ đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên một quan điểm khá hoàn thiện về Tổ quốc và chủ quyền dân tộc. Trước hết, tác giả đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa, coi đây là cội nguồn sức mạnh.

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”

Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh nói riêng và bề lũ xâm lược nói chung. Đối với Nguyễn Trãi yêu nước gắn liền với chống xâm lược. Nhân nghĩa không những trong quan hệ giữa người với người mà còn có trong quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Đây là nội dung mới, sự phát triển tư tưởng mới về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi so với Nho giáo.

Nối tiếp tư tưởng nhân nghĩa Nguyễn Trãi đã thể hiện niềm sâu sắc niềm tự hào về độc lập, chủ quyền dân tộc qua 8 câu thơ tiếp theo

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”

Đất nước ta có bốn nghìn năm văn hiến với cả một quá trình dựng nước là giữ nước kiên cường, bền bỉ. Hai câu thơ trên đã lột tả tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt.

“Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác”

Tác giả đưa ra những yếu tố căn bản để xác định chủ quyền của dân tộc, văn hiến lãnh thổ, phong tục chủ quyền và lịch sử lâu đời với những yếu tố căn bản này, Nguyễn Trãi đã phát biểu hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia dân tộc mang tính sâu sắc hơn.So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc – bài thơ “Sông núi nước Nam” – thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.

Trong bài Nam Quốc Sơn Hà, Lý thường Kiệt đã thể hiện tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc qua cách gọi vua Đại Việt là Nam đế, nâng vị thế vua ta lên ngang hàng với các triều vua của phong kiến Trung Hoa, đến Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy tinh thần đó.

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào chẳng có.”

Nguyễn Trãi đã tiếp tục phát huy niềm tự hào dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Để tăng thuyết phục cho bài cáo, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận. Tác giả đặt nước ta ngang hàng với các triều đại phong kiến Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hoá,…. Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Việc xưa xem xét

Chứng cớ còn ghi.

Trong bài Nam quốc sơn hà. Lý Thường Kiệt khẳng định sức mạnh của chính nghĩa: lũ giặc bạo ngược (nghịch lỗ) làm trái đạo nhân nghĩa, phạm vào sách trời (thiên thư ) tức là đi ngược chân lí khách quan, thì nhất định chúng sẽ chuốc lấy bại vong ( thủ bại hư ). Còn Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã đưa ra những dẫn chứng hùng hồn về sức mạnh của chân lí, sức mạnh của chính nghĩa. Tướng giặc kẻ bị giết, ng bị bắt: Lưu Cung… thất bại, Triệu Tiết… tiêu vong, bắt sống Toa Đô, giết tươi Ô Mã… Những chứng cớ còn ghi rõ ràng trong lịch sử chống xâm lăng của nước Đại Việt đã chứng minh niềm tự hào to lớn của dân tộc là có cơ sở.

Đoạn văn mở đầu bài Bình Ngô đại cáo không dài, tuy vậy, nó vẫn là điểm tựa, là nền móng lí luận cho toàn bài. Đoạn văn có sức khái quát cao, giàu chứng cứ lịch sử, tràn đầy cảm xúc tự hào. Bề nổi của bài văn là sự nghiêm khắc răn dạy, còn chiều sâu thấm thía tư tưởng nhân nghĩa cốt lõi của đạo làm người.


Bài mẫu 2

"Nước Đại Việt ta" là đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi. Tác phẩm không chỉ giàu giá trị nghệ thuật mà còn mang ý nghĩa tư tưởng lớn, và có thể nói rằng đoạn trích "Nước Đại Việt ta" là một áng văn tràn đầy niềm tự hào dân tộc.

Nếu từ xa xưa, lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc được thể hiện trên nhiều mặt, nhiều phương diện. Đó là tinh thần hi sinh không ngại hiểm nguy, là niềm tự hào về lòng đoàn kết, anh dũng của dân tộc. Đó còn là sự tự hào về vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, thì đến với "Nước Đại Việt ta'', lòng tự hào ấy được biểu hiện bằng những cách rất độc đáo và sâu sắc.

Thứ nhất, tư tưởng cốt lõi của mọi quốc gia, dân tộc là tư tưởng nhân nghĩa.. Một quốc gia thái bình, thịnh trị là một quốc gia mà nhân dân được ấm no, yên ổn, vững bền.

" Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

Nhân dân là nguồn cội, là gốc của một nước. Việc nhân nghĩa, chính đáng nhất là hành động vì nhân dân, bảo vệ nhân dân của mình. Muốn được dân yên thì phải trừ bạo, hành động phi nghĩa của quân giặc chính là bạo loạn, dẹp được giặc thì nhân dân mới an yên, cuộc sống mới phát triển, tốt đẹp. Lòng tự hào dân tộc thể hiện ở cốt cách, lý tưởng cao đẹp là chiến đấu hết mình vì dân, vì nước.

Thứ hai, lòng tự hào dân tộc còn được thể hiện ở sự khẳng định chủ quyền, ý thức về độc lập, nét đẹp văn hóa riêng của dân tộc mình:

" Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần

Bao đời xây nền độc lập

...

Song hào kiệt đời nào cũng có."

Tác giả cất lên tiếng thơ đầy kiên quyết và tự hào về đất nước mình. Một quốc gia có nền văn hiến từ ngàn xưa không ai chối cãi, một đất nước có lãnh thổ riêng, có chế độ riêng từ bao đời được chứng minh qua bao thời kì lịch sử độc lập. Một dân tộc với những phong tục tập quán riêng biệt, với bao người hiền tài, hào kiệt, anh hùng. Một đất nước có văn hiến, phong tục, lịch sử, nhân tài, thì đó là một quốc gia mạnh mẽ và bền vững, một quốc gia có cương vực lãnh thổ riêng thì không ai có quyền xâm phạm vào bờ cõi, núi sông nơi đây. Nếu phương Bắc có Hán Đường, Tống, Nguyên giàu mạnh, thì nước ta cũng trải qua bao triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần cũng thịnh trị không kém. Mỗi phương có một thế mạnh riêng, bờ cõi riêng, lẽ gì sang xâm phạm.

Bằng lý lẽ thuyết phục, dẫn chứng khách quan, ngôn ngữ giọng điệu linh hoạt Nguyễn Trãi đã thể hiện niềm tự hào dân tộc mình một cách đầy sâu sắc. Đó không chỉ là niềm tự hào về lý tưởng, về những giá trị văn hóa lâu bền của dân tộc mà còn là niềm tự hào về con người nước Nam, nhân dân nước Nam với truyền thống anh hùng, hào kiệt, anh tài. Là sự ý thức ở mức cao nhất về giá trị cốt lõi của một đất nước là giá trị của con người, của nhân dân.

Tham Gia Group Dành Cho 2K11 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí

close