Cảm nghĩ về nhân vật ông giáo trong Lão Hạc

Xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa tinh thần của lão Hạc.

Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Cánh diều

Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Bài mẫu 1

Xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa tinh thần của lão Hạc. Những suy nghĩ của nhân vật này giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người lão Hạc. Nhân vật lão Hạc đẹp, cao quý thực sự thông qua nhân vật tôi.

Cái hay của tác phẩm này chính là ở chỗ tác giả cố tình đánh lừa để ngay cả một người thân thiết, gần gũi với lão Hạc như ông giáo vẫn có lúc hiểu lầm về lão. Sự thật nhân vật tôi cố hiểu, cố dõi theo mới hiểu hết con người Lão Hạc. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bã chó, ông giáo ngỡ ngàng, chột dạ: “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có cái ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày lại thêm đáng buồn”.Chi tiết này đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm. Nó đánh lừa chuyển ý nghĩ tốt đẹp của ông giáo và người đọc sang một hướng khác: Một con người giàu lòng tự trọng, nhân hậu như lão Hạc cuối cùng cũng bị cái ăn làm cho tha hoá, biến chất sao? Nếu Lão Hạc như thế thì niềm tin về cuộc đời về ông giáo sẽ sụp đổ, vỡ tan như chồng ly thủy tinh vụn nát.

Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn dữ dội vì ăn bả chó của lão Hạc, ông giáo mới vỡ oà ra: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”. Đến đây truyện đi đến hồi mở nút, để cho tâm tư chất chứa của ông giáo tuôn trào theo dòng mạch suy nghĩ chân thành, sâu sắc về lão Hạc và người nông dân… “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa bỉ ổi … toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”.

Có lẽ đây là triết lý sống xen lẫn cảm xúc xót xa của Nam Cao. Ở đời cần phải có một trái tim biết rung động, chia xẻ, biết yêu thương, bao bọc người khác, cần phải nhìn những người xung quanh mình một cách đầy đủ, phải biết nhìn bằng đôi mắt của tình thương.

Với Nam Cao con người chỉ xứng đáng với danh hiệu con người khi biết đồng cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, trân trọng, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương. Muốn làm được điều này con người cần biết tự đặt mình vào cảnh ngộ cụ thể của người khác để hiểu đúng, thông cảm thực sự cho họ.

Chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật tôi trực tiếp kể lại toàn bộ câu chuyện cho nên ta có cảm giác đây là câu chuyện thật ngoài đời đang ùa vào trang sách. Thông qua nhân vật tôi, Nam Cao đã thể hiện hết Con người bên trong của mình.

Đau đớn, xót xa nhưng không bi lụy mà vẫn tin ở con người. Nam Cao chưa bao giờ khóc vì khốn khó, túng quẫn của bản thân nhưng lại khóc cho tình người, tình đời. Ta khó phân biệt được đâu là giọt nước mắt của lão Hạc, đâu là giọt nước mắt của ông giáo: Khi rân rân, khi ầng ực nước, khi khóc thầm, khi vỡ oà nức nở. Thậm chí nước mắt còn ẩn chứa trong cả nụ cười: Cười đưa đà, cười nhạt, cười và ho sòng sọc, cười như mếu …

Việc tác giả hoá thân vào nhân vật tôi làm cho cách kể linh hoạt, lời kể chuyển dịch trong mọi góc không gian, thời gian, kết hợp giữa kể và tả, hồi tưởng với bộc lộ cảm xúc trữ tình và triết lý sâu sắc…

Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm của mọi thời, bi kịch của đời thường đã trở thành bi kịch vĩnh cửu. Con người với những gì cao cả, thấp hèn đều có trong tác phẩm. Thông qua nhân vật tôi tác giả đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy bảo vệ nhân phẩm con người trong cơn lũ cuộc đời sẵn sàng xoá bỏ mạng sống và đạo đức. Cho nên chúng ta nên đặt nhân vật tôi ở một vị trí tương xứng hơn khi tìm hiểu tác phẩm.

Bài mẫu 2

       Đọc truyện "Lão Hạc", ta bắt gặp bao con người, bao số phận, bao mảnh đời đáng thương, bao tấm lòng đáng trọng: Lão Hạc và cậu con trai "phẫn chí" đi phu đồn điền cao su, ông giáo và người vợ, Binh Tư và thằng Mục, thằng Xiên,... Giữa bóng tối cuộc đời cùng quẫn sau xóm làng quê bùn đọng, ta vẫn tìm thấy ít nhiều ánh sáng tâm hồn nhân hậu, chứa chan tình thương yêu. Bên cạnh nhân vật lão Hạc là ông giáo, một nhân vật để lại bao ấn tượng đối với mỗi chúng ta vẻ người trí thức nghèo trong xã hội cũ.

       Không rõ họ tên là gì. Hai tiếng "ỏng giáo" đã khẳng định vị thế của một con người giữa làng quê trước năm 1945 "nhiều,chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể". Hai tiếng "ông giáo" từ miệng lão Hạc nói ra, lúc nào cũng đượm vẻ thân tình, cung kính, trọng vọng: "Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ",..."Vâng, ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng"..., "Tôi cắn rơm, cắn có tôi lạy ông giáo !".

       Hãy đi ngược thời gian, tìm về thời trai trẻ của ông giáo. Là một con người chăm chỉ, ham mê, sống vì một lí tưởng đẹp với bao mộng tưởng. Ông đã từng lăn lộn vào tận Sài Gòn, “hòn ngọc Viễn Đông" thời ấy, để làm ăn, để học tập, để gây dựng sự nghiệp. Cái va-li "đựng toàn những sách" được người thanh niên ấy rất "nâng niu"; cái kỉ niệm "đầy những say mê đẹp và cao vọng" ấy, hơn sáu chục năm sau còn làm cho ta xúc động và quý trọng một nhân cách đẹp.

       Con người "nhiều chữ nghĩa'' ấy lại nghèo. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn, quần áo bán gần hết, về quê chỉ có một va-li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu thì ông giáo lại quý những quyển sách của mình bấy nhiêu. Bởi lẽ những quyển sách ấy đã làm bừng lên trong lòng ông "như một rạng đông" thời trai trẻ, làm cho cuộc đời thêm sắc màu ý vị, sống say mê, "trong trẻo, biết yêu và biết ghét".

       Cái nghèo vẫn đeo đẳng ông giáo mãi, "ông giáo khổ trường tư". Vận hạn xảy ra luôn luôn như ông nghĩ: "Đời người ta không chỉ khổ một lần. Sách cứ bán dần đi. Chỉ còn giữ lại 5 quyển sách với lời nguyền: "... dù có phải chết cũng không bán". Như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức, ông giáo đã phải bán nốt đi 5 cuốn sách cuối cùng, cái gia tài quý giá nhất của người trí thức nghèo. "Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?", lời than ấy cất lên nghe thật não nuột, đã thể hiện một nhân cách đẹp trước sự khốn cùng: biết sống và dám hi sinh vì cuộc sống!

       Ông giáo là một trí thức có trái tim nhân hậu rất đáng quý. Ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau, nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư, nhờ viết hộ một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và chuyện đứa con trai "phần chí" không lấy được vợ. San sẻ về nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên,... Có lúc là một điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang... "Lúc tắt lửa tối đèn có nhau". Ông giáo đã đồng cảm, đã thương xót, đã san sẻ với lão Hạc với tất cả tình người. Ai đã từng là độc giả của Nam Cao, chắc sẽ không bao giờ quên mẩu đối thoại này:

... Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo:

-   Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?

-   Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?

Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão,ôn tồn bảo:

-   Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm chờ tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là sướng.

-  Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng"...

       Ông giáo đã thương lão Hạc "như thể thương thân”. Không chỉ an ủi, động viên, mà ông còn tìm mọi cách để "ngấm ngầm giúp" khi biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn rau, ăn khoai, ăn củ ráy... Trong lúc đàn con của ông giáo cũng đang đói; cái nghĩa cử "Lá lành đùm lá rách" ấy mới cao đẹp biết bao!

       Ông giáo nghèo mà đức độ lắm. Trước khi ăn bả chó, lão Hạc đã gửi ông giáo 30 đồng để phòng khi chết "gọi là của lão có tí chút...", gửi lại ông giáo ba sào vườn cho đứa con trai... Tình tiết ấy cho thấy lão Hạc rất tin ông giáo. Ông giáo là người để lão Hạc "chọn mặt gửi vàng. Giữa cái xã hội đen bạc thời ấy, một bà cô dành cho đứa cháu nội bát nước cháo đã vữa ra như một sự bố thí (Những ngày thơ ấu), vợ tên địa chủ bắt bí, bóp nặn người đàn bà khốn cùng để mua rẻ đứa con gái lên bảy tuổi và ổ chó (Tắt đèn), một tên phụ mẫu ăn bẩn đồng hào của chị nhà quê (Đồng hào có ma)..., ta mới thấy niềm tin, sự kính trọng của kẻ khốn cùng đối với ông giáo thật là thánh thiện.

       Trước cái chết "dữ dội" của lão Hạc, cái chết "đau đớn và bất thình lình", chỉ có ông giáo và Binh Tư hiểu... Ông giáo khẽ cất lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành tội nghiệp. Trong giọt lệ là những lời hứa của một nhân cách cao đẹp, đáng trọng: "Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt ! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tỏi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào...”.

       Cùng với ông giáo Thứ trong "Sống mòn", Điển trong "Trăng sáng", nhân vật "tôi" trong "Mua nhà", hình ảnh ông giáo trong truyện "Lão Hạc" đã kết tinh cái tâm và cái tài của Nam Cao trong nghệ thuật xây dựng nhân vật - nhà văn nghèo, ông giáo khổ trường tư - trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những con người nghèo mà trong sạch, hăm hở và nhiệt tâm từng ôm ấp bao mộng đẹp, sống nhân hậu, vị tha. Có người đã cho rằng, ông giáo là một nhân vật tự truyện, mang dáng dấp hình bóng Nam Cao. Ý kiến ấy rất lí thú.

       Trong truyện "Lão Hạc", ông giáo vừa là nhân vật, vừa là người dẫn chuyện. Không phải là nhân vật trung tâm, nhưng sự hiện diện của ông giáo đã làm cho "Bức tranh quê" ngày xa xưa ấy thêm sáng tỏ. Nhân vật ông giáo là chiếc gương soi sáng cuộc đời và tâm hồn lão Hạc, đã góp phần tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn đặc sắc này.

Bài mẫu 3

Trong những tác phẩm sáng tác của nhà văn Nam Cao, hình ảnh của người nông dân và người trí thức xuất hiện lại và trở thành những bức tranh sống động về nghệ thuật và cuộc sống. Những người trí thức trong tác phẩm của ông thường là những nạn nhân của hoàn cảnh khó khăn và đầy nghiệt ngã. Cuộc sống mòn mỏi, thấp thỏm, áo cơm ghì sát đất là những gì họ phải đối mặt hàng ngày. Điều đau khổ hơn là họ không chỉ là những người trí thức mà còn là những người hiểu rõ nhất về nỗi khổ đau của mình trước cuộc sống. Nhân vật ông giáo trong truyện ngắn "Lão Hạc" của Nam Cao là một ví dụ điển hình.

Ông giáo trong truyện ngắn "Lão Hạc" mang trên vai mình nhiều trọng trách. Là nhân vật đứng thứ hai sau lão Hạc, ông giáo không chỉ là người chứng kiến mà còn là người tham gia chủ động vào câu chuyện của nhân vật chính. Ông giáo đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt câu chuyện và trực tiếp bày tỏ thái độ, tình cảm, tâm trạng của bản thân. Điều này tạo nên một sự gần gũi và khác biệt trong cách kể chuyện so với tiểu thuyết - tự truyện "Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng.

Ông giáo cũng là một con người trải qua nhiều khó khăn trong cuộc sống. Ở tuổi trẻ, ông đã đi khắp nơi, thậm chí đến Sài Gòn với niềm tin và khao khát cao cả. Nhưng cuộc sống đưa ông trở lại vùng nông thôn nghèo, nơi hy vọng bị tiêu diệt và những mơ ước chỉ là giấc mộng không thành. Những cuốn sách mà ông giáo nâng niu quý trọng cuộc sống của mình đã phải bị bán đi vì con trai ốm, và vì sự đất đai của mình. Mặc dù Nam Cao không mô tả chi tiết về cuộc sống của ông giáo tại quê nhà, nhưng ta cảm nhận được sự buồn bã và nỗi đau man mác phủ lên cuộc sống của ông.

Ông giáo là một nhân vật giàu lòng yêu thương. Có lẽ chính điều này đã khiến ông và lão Hạc trở nên gần gũi hơn. Ông giáo thể hiện sự cảm thông và thương xót đối với hoàn cảnh của lão Hạc - người láng giềng già, tốt bụng. Ông giáo tìm cách an ủi, giúp đỡ lão Hạc và trở thành nơi lão Hạc có thể bộc lộ tâm sự của mình. Khi thằng con trai của lão Hạc đi xa và khi lão bán chó Vàng, ông giáo trở thành điểm tựa tinh thần, nơi lão Hạc chia sẻ những suy nghĩ của mình. Ông giáo giữ bí mật vợ mình, thỉnh thoảng giúp đỡ lão Hạc một cách âm thầm. Tình cảm này tạo ra một nguồn động viên và an ủi quan trọng trong cuộc sống khó khăn của lão Hạc.

Tuy nhiên, xã hội đang đối mặt với những thách thức nặng nề, và ông giáo phải đối diện với hiện thực đau lòng. Khi lão Hạc xin chó của Binh Tư, ông giáo lầm tưởng rằng lão Hạc cũng đã từ bỏ nhân cách và liều lĩnh vì đói nghèo. Mặc dù vậy, ông giáo vẫn giữ tâm nhìn nhân hậu, thấu hiểu rằng lão Hạc đang phải đối mặt với cuộc sống khốc liệt. Ông giáo cảm thấy buồn khi nhận ra rằng lão Hạc đã buộc phải bước theo con đường trộm cắp để sống sót. Nhìn nhận về phẩm chất của lão Hạc và hiểu sâu tâm hồn của họ, ông giáo nhận thức rằng nếu không hiểu sâu về con người, ta chỉ nhìn thấy họ như những người ngu dốt và xấu xa. Ngược lại, nếu ta hiểu và yêu quý lão Hạc, ta có thể giúp đỡ anh ta. Ông giáo giúp đỡ lão Hạc một cách gián tiếp, thể hiện lòng nhân ái và sự hiểu biết với người nông dân nghèo đang đối mặt với nhiều khó khăn.

Cuối cùng, truyện Lão Hạc không chỉ là câu chuyện về xã hội đương thời mà còn là một tác phẩm tố cáo sâu sắc về tình cảm, sự chia sẻ và quan trọng của nhân cách trong mối quan hệ con người, bất kể họ là trí thức hay nông dân. Ông giáo là biểu tượng của lòng nhân ái và sự hiểu biết, đồng thời là người bạn đồng cảm với lão Hạc trong những khoảnh khắc khó khăn nhất. Câu chuyện cảm động này nhấn mạnh sự quan trọng của việc hiểu biết và chia sẻ trong xã hội đầy thách thức và đau khổ.

Bài mẫu 4

Trong tác phẩm ngắn "Lão Hạc", Nam Cao đã thành công trong việc khắc họa hình tượng những người nông dân Việt Nam sống dưới ách thống trị nặng nề của xã hội thực dân nửa phong kiến. Những con người này phải trải qua cuộc sống đầy đau khổ, nhưng vẫn mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Nếu Lão Hạc là hình tượng gây xúc động bởi tình phụ tử thiêng liêng và nhân cách cao thượng, thì ông giáo cũng là điểm sáng về tình thương người và cách nhìn đầy cảm thông, trân trọng đối với người nông dân nghèo đói trong thời kỳ đó.

Đầu tiên, nhận thấy nhân vật "tôi" trong tác phẩm là một người tri thức nghèo. Nghề giáo trong xã hội thời đó thường xuyên bị thất nghiệp, và mọi ước mơ, lý tưởng của tuổi trẻ đành phải bỏ dở. Một số phận mơ ước biến thành những khát vọng tắt ngấm. Ngay cả những cuốn sách quý giá, ông giáo cũng đành phải bán để chi trả cho việc chữa bệnh cho con. Ông giáo cảm thông với nỗi đau của Lão Hạc, nhưng cũng tỏ ra đau đớn khi nhìn thấy những cuốn sách quý giá của mình bị bán đi.

Từ kinh nghiệm và nỗi đau cá nhân, ông giáo dễ dàng hiểu và cảm thông với Lão Hạc. Ông thấy được phẩm chất cao quý của Lão Hạc và trân trọng điều này. Ông nhận thức rằng nếu không hiểu sâu về tâm hồn của họ, người ta chỉ thấy họ ngu dốt, gàn dở, xấu xa. Hiểu và yêu quý Lão Hạc, ông giáo ngầm giúp đỡ Lão Hạc, mặc dù vợ ông phàn nàn. Điều này thể hiện một tình cảm sâu sắc và nhân hậu.

Tuy nhiên, trong một xã hội đầy những khó khăn, ông giáo cũng phải đối mặt với sự hiện thực đau lòng. Khi Lão Hạc xin chó của Binh Tư, ông giáo lầm tưởng rằng Lão Hạc cũng đã từ bỏ nhân cách, đói nghèo đến mức liều lĩnh. Mặc dù vậy, ông giáo vẫn giữ tâm nhìn nhân hậu: ông thấu hiểu rằng Lão Hạc đang thực hiện một hành động cảm tử để sống. Ông giáo kính trọng nhân cách của Lão Hạc, nhưng cũng buồn thương trước sự suy thoái đạo đức.

Cuối cùng, ông giáo không chỉ là một nhân vật tri thức không may mắn trong xã hội, mà còn là người có tấm lòng nhân hậu đáng quý, có cái nhìn sâu sắc để cảm thông và quý trọng những người chất phác như Lão Hạc. Điều này làm nổi bật thông điệp về tình cảm, sự chia sẻ và sự quan trọng của nhân cách trong mối quan hệ giữa con người, dù họ là trí thức hay nông dân.

Bài mẫu 5

Mỗi nhân vật trong truyện ngắn "Lão Hạc" của nhà văn Nam Cao không chỉ là một phần của câu chuyện, mà còn là một đoạn đời, một số phận đầy hấp dẫn. Chúng ta không chỉ cảm thấy thương cảm và xót xa trước cái chết đau đớn của Lão Hạc, mà còn không quên một ông giáo đầy bất hạnh. Trong tâm hồn ông ta chứa đựng những ý định lớn lao, nhưng tất cả đều sụp đổ vì "cơm áo không đùa với khách thơ."

Tiếng "ông giáo" mang đầy tôn kính, thiêng liêng. Ở vùng quê nghèo, ít học, người được người đời tôn xưng là ông giáo. Đó phải là người hiểu luân lý, nhiều chữ nghĩa mới được gọi như vậy. Ông giáo chính là một người như vậy.

Dưới bàn tay giới thiệu của Nam Cao, người đọc biết đôi chút về tiểu sử của ông giáo. Thời trẻ, ông giáo là người chăm chỉ, ham học hỏi, sống có mục đích và lý tưởng. Điều ông quý hơn sinh mệnh chính là những cuốn sách. Nhưng cuộc sống đưa đẩy, đầy gian truân, khi vào Sài Gòn lập nghiệp không được bao lâu, ông giáo ốm. Trận ốm ấy khiến ông bán gần hết tài sản và mang về được một vali sách. Nếu Lão Hạc yêu quý Cậu Vàng như thế nào thì ông giáo cũng nâng niu những cuốn sách của mình như vậy. Nhưng lấy vợ, rồi cái nghèo kéo theo, ông bán dần bán mòn những quyển sách và chỉ giữ lại đúng năm quyển, tự hứa sẽ không bán chúng nữa. Nhưng cuộc đời cũng biết trêu đùa, con ông ốm đau, buộc phải bán đi những cuốn sách còn lại. Cuộc đời của ông giáo cũng chính là một bi kịch khác, bi kịch của một người trí thức nghèo.

Ông giáo còn là một người có tấm lòng nhân hậu, luôn biết yêu thương và chia sẻ với mọi người. Ông giáo là điểm tựa vững chắc cho Lão Hạc. Ông giáo là nơi để Lão Hạc chia sẻ tâm sự, đặc biệt là từ ngày con Lão Hạc bỏ đi đồn điền cao su. Những lá thư con Lão gửi về cũng chính là ông giáo đọc, để Lão giải tỏa nỗi nhớ con. Sau khi Lão Hạc bán chó, đau đớn, xót xa và tự trách mình, cũng chính ông giáo ở bên an ủi, động viên: "Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi xuống phần này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lá. Thế là sung sướng." Đối với ông giáo, Lão Hạc là một người thân trong gia đình, ông thương cảm cho số phận bất hạnh của Lão Hạc, vợ mất, một mình nuôi con, nay lại lụi cụi một mình khi đứa con trai bỏ đi. Lão Hạc nào có ai bên cạnh chăm sóc, ngoài sự quan tâm, chia sẻ của ông giáo.

Dù gia cảnh cũng không khác gì hơn Lão Hạc. Nhưng nhìn cảnh Lão Hạc sau khi gửi tiền tang và giao mảnh vườn lại cho con, phải ăn uống kham khổ, lấy củ khoai, củ rau ăn thì ông giáo động lòng thương cảm muốn giúp đỡ. Ông giúp bằng chính tâm của mình, nhưng lại bị Lão Hạc từ chối gần như là hạch dịch. Ông hiểu rõ, vì Lão là người có lòng tự trọng, nên không muốn ai thương hại mình. Cái chết của Lão Hạc cũng làm ông giáo bàng hoàng đau đớn. Đến bây giờ ông mới thực sự hiểu hết con người lương thiện, nhân cách cao đẹp của Lão Hạc: "Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt. Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho nó và bảo nó: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thả chết chứ không chịu bán đi một sào..."

Ông giáo cũng là người rất hiểu chuyện, nắm bắt rõ tâm lý con người. Khi ông mang chuyện Lão Hạc kể với vợ, mụ vợ gắt phắt đi vì cho rằng chính Lão tự làm Lão khổ nên mặc kệ Lão. Ông giáo không trách vợ vì: "Vợ tôi không ác nhưng thì khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến cái gì khác đâu? Khi người ta đau khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỷ che lấp mất."

Ông giáo là nhân vật tư tưởng của nhà văn Nam Cao. Ông đại diện cho Nam Cao phát biểu những suy nghĩ, quan niệm nhân sinh ở đời.


Tham Gia Group Dành Cho 2K11 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí

close