Giá trị nhân văn trong văn bản Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn?Lý Công Uẩn sinh năm 974, quê ở Từ Sơn (Bắc Ninh). Là người có chí lớn lại khoan từ nhân thứ (lời sư Vạn Hạnh), nên sau khi Lê Long Đĩnh mất, vua kế vị còn nhỏ không thể đảm đương trọng trách gánh vác giang sơn xã tắc, ông đã được các vị đại thần trong triều tôn lên ngôi hoàng đế Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Cánh diều Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Bài mẫu 1 Lý Công Uẩn sinh năm 974, quê ở Từ Sơn (Bắc Ninh). Là người có chí lớn lại khoan từ nhân thứ (lời sư Vạn Hạnh), nên sau khi Lê Long Đĩnh mất, vua kế vị còn nhỏ không thể đảm đương trọng trách gánh vác giang sơn xã tắc, ông đã được các vị đại thần trong triều tôn lên ngôi hoàng đế. Vốn thông minh bẩm sinh lại nhập thân văn hóa ở một vùng đất văn minh, văn hiến, là con nuôi của các vị cao tăng xuất chúng, Lý Công Uẩn thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh nước Đại Việt, viết nên những trang sử oanh liệt dựng nước và giữ nước. Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ) khởi đầu sự nghiệp trị vì đất nước của mình bằng việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Việc dời đô vốn là một sự kiện quan trọng và việc dời đô của Lý Thái Tổ càng in đậm dấu ấn trong lịch sử vì nó mở ra một giai đoạn phát triển phồn vinh của đất nước, hơn nữa nó lại gắn với một áng văn chương bất hủ: Chiếu dời đô. Tiếp xúc với áng văn chương kiệt tác này, không những ta được sống trong hào khí của một khát vọng cao cả và một khí phách anh hùng, mà còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ánh sáng nhân văn. Để hiểu rõ giá trị nhân văn cao đẹp của bài Chiếu, ta cần suy ngẫm kĩ xem vì sao Lý Thái Tổ quyết định rời đô? Việc dời đô của ông xuất phát từ những ý nguyện và quyền lợi của ai và nhằm mục đích gì? Vậy mà vì sao mà Lý Thái Tổ quyết định dời đô? Khi Lý Công Uẩn được suy tôn lên ngôi hoàng đế, triều đình vẫn còn đang đóng đô ở Hoa Lư. Kinh đô Hoa Lư nằm ở một vùng đất hẹp (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Địa thế hiểm trở chỉ tiện cho việc chống giữ mà không dễ bề phát triển. Với trí tuệ nhạy cảm, Lý Thái Tổ cảm nhận một cách sâu sắc và thấm thía những cái bất lợi của việc đóng đô ở đây. Nhìn lại hai triều trước, nhà Đinh chỉ tồn tại có 12 năm (968-980), nhà Lê chỉ tồn tại có 29 năm (980-1009). Số vận của họ mới ngắn ngủi làm sao! Số vận của một vương triều, đâu chỉ là vấn đề riêng của một dòng họ, nó có quan hệ mật thiết tới sự suy thịnh, tồn vong của một quốc gia , dân tộc. Hơn nữa, nó còn quan hệ mật thiết với phận của trăm dân, muôn họ. Triều đình suy thì trăm họ cũng phải hao tổn. Điều đó khiến Lý Thái Tổ vô cùng đau xót: Trẫm rất đau xót về việc đó. Nỗi lòng và tình cảm của hoàng đế Thái Tổ chính là tình cảm yêu nước thương dân tha thiết, sâu nặng của ông. Tấm lòng ấy khiến ông đi đến một quyết định đúng đắn và dứt khoát: dời đô! Như vậy, Lý do dời đô của Lý Thái Tổ xuất phát từ sự lo lắng cho sự an nguy, tồn vong, suy thịnh của giang sơn xã tắc, lo lắng cho số phận và hạnh phúc của nhân dân. Tấm lòng lo nghĩ cho nước, cho dân, há chẳng phải là biểu hiện của tư tưởng nhân văn đó sao? Với một trí tuệ hiếm có và tầm nhìn khác thường, hoàng đế Thái Tổ thấy rõ lợ thế to lớn của thành Đại La. Đó là một vùng đất vừa thuận lợi về mặt địa Lý để có thể phát triển kinh tế giàu mạnh khiến cho muôn dân được ấm no, hạnh phúc: huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ, ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Đồng thời cũng là nơi thuận tiện cho việc xây dựng và phát triển chính trị, văn hóa: Thật là chốn hội tụ của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Mục đích dời đô của Lý Thái Tổ không chỉ vì quyền lợi của dòng họ mình, cao hơn nữa là quyền lợi của quốc gia, dân tộc, nhân dân. Mục đích đó thật cao đẹp và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc! Có thể nói, Chiếu dời đô đã phản ánh được khát vọng của nhân dân ta về một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường, chính khát vọng ấy làm cho bài Chiếu thấm đẫm tinh thần tinh thần nhân văn cao cả. Để tận hôm nay, ánh sáng nhân văn trong bài Chiếu vẫn tỏa sáng. Bài mẫu 2 Trong thực tiễn lịch sử Việt Nam, trong thời đại của mình, các vị vua không chỉ lo bảo vệ độc lập, chống sự xâm lăng của kẻ thù; ổn định và phát triển cuộc sống của người dân mà việc chọn kinh đô cho mình cũng là một nhân tố quan trọng trong việc trị vì. Bởi kinh đô, nơi triều đình ngự tại để có thể trị vì, chăm lo tới mọi vấn đề của đất nước, nơi đóng đô phù hợp sẽ làm cho vận nước thêm trường thịnh, phát triển và ngược lại, nếu chọn không phù hợp thì vận nước sẽ bị suy vong, sự tồn tại của vương triều ấy không thể lâu dài. Nhận thức được tầm quan trọng này, nhà vua Lí Công Uẩn đã có một quyết định lớn lao trong sự nghiệp trị vì của mình, đó là dời đô từ Hoa Lư và thành Thăng Long. Quá trình dời đô này cũng được thể hiện rõ nét thông qua bài chiếu của nhà vua tới nhân dân: “Chiếu dời đô”. Ngay sau khi lên làm vua, bằng chí tuệ và bản lĩnh của một vị minh quân, Lí Công Uẩn đã sâu sắc nhận ra tầm quan trọng của việc dời đô, bởi lúc bấy giờ nhà Lí vẫn đang đóng đô ở kinh đô Hoa Lư, nhà vua nhận ra được những hạn chế, yếu điểm của kinh đô này, từ đó đã mạnh dạn, bản lĩnh triển khai việc dời đô sang một vùng đất mới mà ông cho là phù hợp, thuận lợi hơn cho việc trị vì của triều đại mình, đó là vùng đất Thăng Long. Tuy nhiên, qua tác phẩm “Chiếu dời dô” ta cũng có thể thấy được sự sáng suốt, coi trọng ý kiến dân chúng của bậc minh quân này. Là người đứng đầu của một nước, ông hoàn toàn có thể quyết định dời đô theo ý kiến của mình, chỉ cần một lời thông báo cho toàn dân được biết. Nhưng ở đây Lí Công Uẩn đã viết một bài chiếu để gửi đến những người dân của mình, cũng là để bàn bạc, trưng bầy ý kiến của người dân về việc dời đô. Chiếu là một thể văn cổ chức năng, thường dùng bởi các bậc vua chúa trong việc ban bố, cáo lệnh xuống cho người dân. Ở đây, Lí Công uẩn đã sử dụng thể văn này để thể hiện sự tôn trọng của mình đến với người dân, trước khi quyết định một vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia, của dân tộc. Mở đầu bài chiếu, Lí Công Uẩn đã nêu ra những trường hợp dời đô của những vị vua xưa: “Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh, năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô”. Đây đều là những vị vua tài giỏi của Trung Quốc, cũng là những người đi đầu trong việc dời đô, chuyển đô đến một nơi tốt đẹp hơn. Những vị vua này đâu phải tự ý dời đô theo sở thích của mình, họ đều căn cứ vào những nhân tố tốt, những ưu điểm của vùng đất mới: “...Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế lâu dài cho con cháu muôn vạn đời, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục được giàu thịnh”. Như vậy, chuyển đô là mong cho đất nước có thêm những điều kiện để phát triển, vận nước được lâu dài. Như vậy, việc dời đô là việc tất yếu, tuy nhiên, Lí Công Uẩn cũng nghiêm khắc phê phán việc nhà Đinh, Lê lại không hề hay biết, làm cho vận nước ngắn ngủi, cuộc sống của người dân phải chịu nhiều lầm than: “...Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trường, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp”. Vùng đất Hoa Lư là nơi đóng đô của nhiều triều đại, nhưng chưa có một vị vua nào nhận thấy việc cần thiết của việc dời đô, đã qua bao lần chứng kiện vận mệnh ngắn ngủi của thời đại mình nhưng cũng không sáng ngộ. Nhà vua phê phán hành động “cố ngự” của hai triều đại này là xuất phát từ tấm lòng yêu nước, thương dân, chứng kiến cảnh chia li của đất nước, lầm than của người dân khiến nhà vua đau khổ: “Trẫm vô cùng đau khổ”. Từ việc nêu ra những luận cứ cho việc dời đô, Lí Công Uẩn đã đưa ra lí do mình chọn vùng đất sẽ chuyển đến là Thăng Long, bởi những lẽ vị trí của khu đất là nơi thắng địa, trung tâm của trời đất, đất cao bằng, rộng mà thoáng, người dân có thể thuận lợi trong việc làm ăn, canh tác. Hơn nữa, cái thế “Rồng cuộn hổ ngồi” rất có lợi trong việc chính trị, việc quân của đất nước, ở đây không chỉ kinh tế, đời sống sinh hoạt của người dân thuận lợi mà việc nước cũng muôn bề suôn sẻ. Và trong cách nhìn của nhà vua, đây là một mảnh đất hiếm, hội tụ mọi ưu điểm có thể trở thành kinh đô mới: “ Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yến của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Như vậy, “Chiếu dời đô” tuy là một bài văn nhằm mục đích ban bố lệnh của nhà vua đến với quần chúng nhân dân nhưng xem xét lời nói chân thành, da diết của vua Lí Công Uẩn, ta lại thấy đây giống một lời trưng cầu ý dân hơn, bởi mọi luận cứ đưa ra đều vô cùng chặt chẽ, xác đáng. Việc dời đô cũng hoàn toàn là muốn cho cuộc sống của nhân dân thêm tốt đẹp, vận nước thêm trường tồn. Tính nhân văn được thể hiện rõ nét qua bài chiếu, đặc biệt qua câu nói của nhà vua cuối tác phẩm: “ Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?” . Bài mẫu 3 “Chiếu dời đô là tác phẩm của Lý Công Uẩn viết vào tháng 7 năm 1010 để thông báo quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư đến Đại La. Quyết định này là một trong những quyết định quan trọng nhất của thời đại. Với lí lẽ sắc bén và tầm nhìn vượt thời, “Chiếu dời đô” vẫn giữ nguyên giá trị nhân văn đến ngày nay. Lý Công Uẩn (974- 1028) là một nhà vua mạnh mẽ và cương trực. Sau khi lên ngôi, ông thực hiện nhiều chính sách quan trọng, góp phần lớn trong sự phát triển của đất nước. Vào tháng 7 năm 1010, vua Lý Công Uẩn nhận thấy Hoa Lư không còn phù hợp cho giao thương trong thời kỳ hòa bình. Việc cần thiết lúc này là tìm một nơi mới để chuyển toàn bộ kinh thành, tạo điều kiện cho dân cư an cư, phát triển sản xuất và giao thương buôn bán. Quyết định này là rời kinh thành Hoa Lư, chuyển về Đại La (nay là Thăng Long, Hà Nội). Theo thuật ngữ, chiếu là một thể loại văn thư mà nhà vua sử dụng để ban bố mệnh lệnh cho thần dân. Vì vậy, chiếu thường mang tính nghiêm trang, lời văn đơn giản, dễ hiểu, luôn nêu rõ lí do và mục đích một cách thẳng thắn. Khi công bố những quyết định quan trọng như việc di dời kinh đô, chiếu là lựa chọn phù hợp. Nội dung của “Chiếu dời đô” được chia thành hai phần: phần một là những lí do cần thiết cho việc di dời kinh thành, và phần hai là lí do chọn Đại La thay vì Hoa Lư làm kinh đô. Ở đoạn một, tác giả trình bày bài học lịch sử và phê phán những quyết định của nhà Đinh và nhà Lê khi chọn Hoa Lư làm kinh đô. Nhà vua đưa ra ví dụ về việc chuyển kinh đô ở Trung Quốc, chứng minh rằng việc này là tất yếu cho sự phát triển của đất nước. Đất nước chỉ có thể phát triển khi kinh thành được đặt ở đúng vị trí, thuận lợi cho giao thông, buôn bán và nông nghiệp. Hoa Lư, với địa hình không thuận lợi trong thời kỳ hòa bình, đã trở thành trở ngại cho sự phát triển và giao thương của dân cư. Phần hai, nhà vua Lý Công Uẩn đưa ra những lí do thuyết phục cho quyết định di dời kinh thành đến Đại La. Đại La được xem là nơi hội tụ các yếu tố quan trọng về phong thủy, tâm linh, chính trị, văn hóa và xã hội. Nơi đây là trung tâm của bốn phương, thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. Con sông Cái với phù sa màu mỡ, là thành lũy tự nhiên, tạo điều kiện cho giao thương toàn cầu. Thăng Long được mô tả như “long bàn hổ cứ”, biểu tượng cho sự hội tụ và phồn thịnh. Tóm lại, “Chiếu dời đô” là một tác phẩm văn học-chính trị có giá trị, thể hiện tầm nhìn xuất sắc của Lý Công Uẩn. Giữ vững giá trị nhân văn qua thời gian. Bài mẫu 4 Trong lịch sử khai quốc của dân tộc ta, việc di chuyển kinh đô tới một địa điểm mới là một thách thức lớn và không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên, Lý Công Uẩn, vị vua có tầm nhìn chiến lược, đã đưa kinh đô từ Hoa Lư về Đại La - một quyết định lịch sử. Với bài chiếu sắc sảo và lập luận chặt chẽ, ông đã thuyết phục dân chúng, quân đội và quan lại, tạo nên sự ủng hộ mạnh mẽ. Bài “Chiếu dời đô” có thể coi là tác phẩm đầu tiên của nhà vua viết cho nhân dân, để lại ảnh hưởng sâu rộng. Lý Công Uẩn, một trong những vị vua tài năng và đức hạnh, đã đóng góp quan trọng trong xây dựng đất nước hòa bình, phát triển nông nghiệp và thương nghiệp. Bài chiếu của ông công bố ý định di dời kinh đô, với lập luận chặt chẽ, giúp mọi người hiểu rõ ý chí và suy nghĩ của nhà vua một cách đơn giản nhất. Bài viết được chia thành hai phần: lí do dời kinh đô và chứng cứ qua lịch sử Việt Nam và Trung Quốc. Ban đầu, nhà vua nhận thức rằng vị trí Hoa Lư không còn phù hợp với sự phát triển trong thời bình. Ông quyết định di chuyển kinh đô đến Đại La. Lý do là do địa lí Hoa Lư với rất nhiều rừng núi, dù có lợi thế trong chiến tranh, nhưng lại trở thành trở ngại trong thời kỳ hòa bình, gây khó khăn cho sự phát triển. Lập luận của tác giả vô cùng hợp lý. Ở Thăng Long, với địa thế bằng phẳng, bảo vệ tự nhiên bởi con sông lớn, là nơi lý tưởng để phát triển dân cư. Chúng ta cảm nhận được tầm nhìn chiến lược của nhà vua, giúp dân chúng hợp tác buôn bán thuận lợi qua các phương tiện giao thông đường bộ và đường thủy. Không chỉ thuyết phục từ lập luận về phong thủy, Lý Công Uẩn còn đưa ra chứng cứ lịch sử về việc di chuyển kinh đô từ các triều đại trước. Những triều đại ngắn ngủi như Đinh hay Lê đã tác động lớn đến sự ổn định và phát triển của đất nước. Bài viết kết luận rằng để dân cư sung túc, đất nước phát triển, các triều đại cần mạnh mẽ và bền vững. Vùng đất được chọn hứa hẹn nhiều lợi ích mới cho sự phát triển, giống như “long bàn hổ cứ”. “Long bàn” là tư thế của rồng cuộn mình, hình ảnh núi non trùng điệp, thể hiện sự phồn thịnh và hội tụ. Bài mẫu 5 Năm 1010, vua Lí Thái Tổ đã quyết định di chuyển kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) đến Đại La (Thăng Long - Hà Nội ngày nay), đánh dấu bước phát triển quan trọng của triều đại phong kiến Việt Nam. “Chiếu dời đô” không chỉ thông báo mệnh lệnh mà còn là tác phẩm văn học lịch sử độc đáo, kết hợp giữa giá trị lịch sử và văn hóa. Tác phẩm được viết theo thể “Chiếu”, một thể văn dành cho việc ban bố mệnh lệnh, với lối viết văn vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuôi. “Chiếu dời đô” phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời thể hiện ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Nhà vua không chỉ nêu rõ lịch sử và lý do dời đô mà còn khéo léo so sánh với các triều đại khác. Từ đó, ông chứng minh rằng việc dời đô là hợp lý và bắt buộc, mang lại sự phồn thịnh và bền vững cho đất nước. Thành Đại La được chọn làm kinh đô mới với vị trí địa lý đắc địa, đồng bằng rộng lớn, có núi sông, và là điểm giao lưu trung tâm của cả nước. Vua Lí Thái Tổ tôn vinh nơi này là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Với lập luận sắc bén, tình cảm chân thành, “Chiếu dời đô” không chỉ thuyết phục quân thần mà còn tạo sự đồng lòng giữa vua và nhân dân. Câu hỏi cuối cùng của vua đã kết thúc tác phẩm một cách đối thoại và thăm dò ý kiến của quần thần, làm tăng sự gần gũi và đồng cảm giữa nhà vua và nhân dân. Bài chiếu không chỉ là sự kiện lịch sử mà còn là minh chứng cho sức mạnh lập luận của vua Lí Thái Tổ. Thông qua việc dời đô, nhà vua không chỉ xây dựng một kinh đô mới mà còn thể hiện khát vọng của dân tộc Đại Việt trong việc độc lập, tự cường, và phát triển. Ngày nay, Đại La - Thăng Long - Hà Nội vẫn là biểu tượng của sự kiện quan trọng và là mảnh đất lịch sử, văn hóa bền vững qua hàng ngàn năm. Điều này chứng tỏ rằng “Chiếu dời đô” không chỉ là một bước quan trọng trong lịch sử mà còn là tác phẩm lập luận có sức ảnh hưởng mạnh mẽ, làm đồng lòng và đồng cảm với nhau.
|