Phân tích Đại cáo bình Ngô - CTSTNguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc mà ông còn là nhà thơ, nhà văn chính luận tài ba của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán.
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Mẫu 1 Lời giải chi tiết: Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc mà ông còn là nhà thơ, nhà văn chính luận tài ba của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn chính luận của Nguyễn Trãi không thể nào chúng ta không nhắc tới "Bình Ngô đại cáo" - một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết ra sau cuộc kháng chiến chống quân Minh. Tác phẩm đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và được xem là "Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc". "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi được viết theo thể cáo - một thể loại văn học cổ bắt nguồn từ Trung Quốc với bố cục và kết cấu chặt chẽ. Mở đầu, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu ra luận đề chính nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho toàn bộ bài cáo của mình. Từng nghe: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Chỉ với hai câu mở đầu bài cáo của mình, tác giả đã nêu lên tư tưởng xuyên suốt tác phẩm đó chính là nhân nghĩa - một phạm trù tư tưởng bắt nguồn từ Nho giáo, dùng để thể hiện cách ứng xử và những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Và với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa đó bắt nguồn từ tư tưởng "yên dân" "trừ bạo". Có thể nói rằng đây chính là cơ sở nền tảng xuyên suốt bài cáo, xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc, từ lòng yêu thương nhân dân và vì nhân dân mà diệt bạo, mà đánh đuổi các thế lực xâm lược. Đồng thời, cũng trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên những chân lý độc lập khách quan, là cơ sở lý luận bền vững để khẳng định độc lập dân tộc cũng như nói lên tư tưởng của bài cáo. Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương Dù mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng dường như Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một hình ảnh vô cùng chân thực và rõ ràng những truyền thống vẻ vang từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Trước hơn hết, nước ta có một nền văn hiến lâu đời, phong tục Bắc Nam từ ngàn năm. Đồng thời, nước ta còn là nước có bờ cõi, lãnh thổ riêng, được mọi người thừa nhận. Đặc biệt hơn cả, thông qua việc so sánh các triều đại phong kiến của nuowsc ta với các triều đại phương Bắc, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại, anh hùng ta ngang hàng với các triều đại phương Bắc, điều đó không chỉ là cơ sở cho nền độc lập mà còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của Nguyễn Trãi.Không dừng lại ở đó, để nêu lên chân lý rõ ràng cho nền độc lập nước ta, tác giả còn tái hiện lại vẻ hào hùng với những chiến thắng vang dội khắp non sông của quân và dân ta trong suốt thời kỳ lịch sử trước đó. Lưu Công tham công nên thất bại Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét Chứng cớ còn ghi. Thêm vào đó, từ cơ sở luận đề chính đã nêu, trong những câu tiếp theo của bài cáo, Nguyễn Trãi đã đi sâu hơn để vạch rõ những tội trạng man rợ, gian ác của kẻ thù. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh đối với nước ta. Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa Bọn gian tà bán nước cầu vinh. Như vậy, chỉ với bốn câu văn song tác giả đã vạch rõ cho người đọc âm mưu xâm lược của giặc Minh. Quân Minh đã lợi dụng tình hình hỗn loạn trong nước ta dưới thời nhà Hồ, với luận điệu xảo trá "phù Trần diệt Hồ", bọn chúng đã lợi dụng tiến vào và thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Hơn thế nữa, không chỉ vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, tác giả còn tố cáo, vạch trần những hành động, tội ác man rợ của giặc trên hầu hết tất cả các lĩnh vực bằng hình ảnh, từ ngữ phong phú. Tội ác đầu tiên của giặc Minh đã được tác giả kể ra đó chính là tàn sát, giết hại những người dân vô tội. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Với nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, tác giả đã vạch rõ những hành động giết người man rợ, tàn ác của giặc. Ngay đến cả những "dân đen", "con đỏ" - những người vô tội chúng cũng không nương tha. Tất cả những điều đó đã thể hiện sự tàn ác của bọn giặc. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát những người dân vô tội bằng cách đẩy vào những nơi rừng thiêng, nước độc với đầy rẫy những hiểm nguy thường trực không biết có ngày nào trở lại hay không. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc. Đồng thời, tội ác của bọn giặc còn được thể hiện qua những chính sách thuế khóa nặng nề, vô lý cùng với những chính sách hủy hoại môi trường sống, cảnh quan thiên nhiên, tiêu diệt sự sống của vạn vật trên đất nước. Nặng thuế khóa sạch không đầm núi ... Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới giăng Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ. Như vậy, với hàng loạt các hình ảnh tả thực, giàu tính biểu tượng, đoạn hai của bài cáo như một bản cáo trạng đanh thép mà ở đó, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch ra những tội ác, những hành động man rợ, ghê người của bọn giặc Minh xâm lược. Và để rồi tất cả những tội ác đó được giác giải khái quát lại trong câu thơ giàu tính khái quát và biểu tượng. Đồng thời, qua những lời thơ ấy cũng đã phần nào giúp chúng ta thấy được thái độ căm thù đến tột cùng của tác giả. Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi Lẽ nào trời đất dung tha Ai bảo thần dân chịu được? Không chỉ dừng lại ở việc vạch ra tội ác, "Bình Ngô đại cáo" còn tái hiện lại một cách chân thực quá trình kháng chiến và giành lấy thắng lợi của quân và dân ta. Mở đầu cho đoạn văn chính là hình ảnh vị chủ tướng, người anh hùng Lê Lợi: Ta đây: Núi Lam Sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Đại từ "ta" đặt ở đầu đoạn văn như một lời khẳng định chắc nịch, thể hiện rõ lai lịch, nguồn gốc xuân thân của anh hùng Lê Lợi. Xuất thân từ nhân dân, nên chắc có lẽ hơn ai hết Lê Lợi hiểu được những nhọc nhằn và cả sự căm phẫn giặc sâu sắc của nhân dân ta - "Căm thù giặc thề không cùng chung sống". Nhưng người anh hùng đó không chỉ có căm thù giặc sâu sắc mà còn mang trong mình bao nỗi niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi "đau lòng nhức óc", "nếm mật nằm gai", "quên ăn gì giận" để suy tính con đường đánh đuổi quân xâm lược và cuối cùng người anh hùng ấy đã dấy binh khởi nghĩa, mang theo trong mình trọng trách cao cả và niềm tin thắng lợi. Song, không dừng lại ở việc tái hiện chân dung vị chủ tướng Lê Lợi, đoạn ba của bài cáo còn tái hiện lại những khó khăn, thử thách gian khổ và cả những chiến thắng vang dội của dân tộc ta. Trước hết, trong buổi đầu khởi nghĩa, quân ta đã gặp những muôn vàn khó khăn, thử thách cả về nhân lực và vật lực. Đó là những ngày quân giặc còn rất mạnh, nhân tài của ta còn nhiều hạn chế "nhân tài như lá mùa thu", "việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần"...Thế nhưng, với tất cả ý chí, lòng quyết tâm và với một đường lối đấu tranh đúng đắn, kiên định "đem đại nghĩa để thắng hung tàn" "lấy chí nhân để thay cường bạo", nghĩa quân của ta đã vượt qua muôn vàn những thách thức để đạt được nhiều thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Mở đầu của những chiến đông ấy là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần trí, Sơn Thọ, Lý An,...và hàng loạt những chiến thắng cứ thế nối tiếp nhau. Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng, thất thế Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khanh cùng kế tự vẫn. Như vậy, trong phần ba của bài cáo, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc hình chủ tướng Lê Lợi cùng những thử thách mà quân và dân ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến và đặc biệt hơn cả là những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy. Đặc biệt, sau khi chiến thắng, nghĩa quân ta của ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc để chúng con đường lui. Những hành động này của quân ta thêm một lần nữa chứng minh cho tư tưởng, luận điểm chính nghĩa mà quân của ta trọn đời vững tin. Và để rồi, trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đã được nêu lên, phần cuối của bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, hòa bình cho dân tộc. Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới .... Xa gần bá cáo Ai nấy đều hay Với giọng văn hùng hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn của Nguyễn Trãi được tuyên bố rộng rãi tới tất cả mọi người. Lời tuyên ngôn ất không chỉ là lời khẳng định về nền độc lập, hòa bình, thống nhất của dân tộc mà qua đó còn thể hiện thái độ ca ngợi và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn của đất nước, của dân tộc khi bước vào một thời kỳ mới. "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và trữ tình. Trải qua bao nhiêu ngàn năm phát triển lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa to lớn của bài cáo này vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay. Mẫu 2 Lời giải chi tiết: Nguyễn Trãi là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn học trung đại Việt Nam nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học độc đáo, có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc mọi thế hệ và “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm như thế. “Bình Ngô đại cáo” ra đời sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân minh xâm lược. Tác phẩm không chỉ là một văn kiện lịch sử tuyên bố nền độc lập của dân tộc mà nó còn là áng văn yêu nước, áng văn chính luận xuất sắc của nền văn học nước ta. Được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng có một bố cục rất chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo nêu lên luận đề chính nghĩa, làm cơ sở, nền tảng cho chân lí độc lập dân tộc. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như chúng ta đã biết, “nhân nghĩa” là một trong số những phạm trù tư tưởng quen thuộc và gần gũi của Nho giáo, nó được dùng để nhắc tới mối quan hệ, cách ứng xử tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức. Với Nguyễn Trãi, “việc nhân nghĩa” phải gắn liền với việc “yên dân” bởi ông luôn “lấy dân làm gốc”, làm nền tảng cho mọi hành động, việc làm của mình. Đặc biệt, trong bối cảnh quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Trãi khẳng định, muốn “yên dân” thì trước hơn hết phải lo “trừ bạo” nghĩa là phải đánh đuổi quân xâm lược, những kẻ đang đàn áp nhân dân và đẩy nhân dân vào cuộc sống lầm than, cơ cực. Như vậy, với hai câu thơ mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tiền đề tư tưởng cho toàn bộ tác phẩm, đó chính là tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng ấy luôn lấy dân làm gốc, xét đến cùng đây là một tư tưởng tiến bộ và mới mẻ của ông. Thêm vào đó, trong phần mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nêu lên chân lí khách quan để khẳng định nền độc lập của dân tộc ta từ bao đời nay. Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có. Dường như, đoạn văn đã gợi lại trong chúng ta những truyền thống đáng tự hào của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng. Đồng thời, với lối so sánh các triều đại phong kiến của nước Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà nó còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thống văn hiến từ ngàn năm. Đồng thời, để khẳng định chân lí độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã liệt kê, kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó. Lưu Công tham công nên thất bại Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Trên cơ sở tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập ở đoạn một, đoạn hai của bài cao đi sâu chỉ rõ những tội ác man rợ của giặc Minh. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh. Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa Bọn gian tà bán nước cầu vinh Lợi dụng tình hình rối ren trong nước của nhà Hồ, giặc Minh với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ” để lừa bịp nhân dân, chúng đã tiến vào xâm lược nước ta. Để rồi, sau đó, chúng đã thi hành hàng loạt chính sách dã man và dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Trãi đã lật mặt, vạch rõ hàng loạt tội ác không thể tha thứ của giặc Minh. Chúng đã tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Bọn giặc Minh thật tàn ác biết bao, ngay đến cả “dân đen”, “con đỏ” chúng cũng không chịu tha. Hai động từ “nướng”, “vùi” được đặt lên đầu câu dường như đã lột tả đến tột cùng sự tàn sát man rợ, giết người không ghê tay của bọn chúng. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy họ vào những nơi đầy rẫy những hiểm nguy, nơi mà khi đã đi rồi thì rất khó để có thể sống sót để trở về. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc Đồng thời, tội ác của giặc Minh còn ở đặt lên đầu nhân dân những chính sách thuế khóa nặng nề, và vô lí và không dừng lại ở đó, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên. Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt Tàn sát cả giống côn trùng, cây cỏ, Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh chân thực, rõ nét cùng việc sử dụng phép đối lập giữa tội ác của kẻ thù với nỗi đau thống khổ của nhân dân và giọng văn đanh thép, hùng hồn, tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng về những tội ác man rợ của kẻ giặc và bản cáo trạng ấy khép lại bằng một hình ảnh so sánh giàu sức khái quát và đầy ám ảnh về tội ác của chúng. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Tiếp đó, trong đoạn ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và giành chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Và trước hơn hết đó chính là hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi. Ta đây: Núi Lam Sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Với đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy nguồn gốc xuất thân của chủ tướng Lê Lợi. Người anh hùng ấy cũng xuất thân từ nhân dân, cũng bước ra từ lòng nhân dân và thấu hiểu bao nỗi nhọc nhằn của nhân dân. Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc – “ngẫm thù lớn hạ độ trời chung”, “căm thù giặc thề không cùng chung sống’ cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận” và cả “những trằn trọc trong đêm mộng mị” để đứng lên dấy binh khởi nghĩa. Dẫu cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra giữa lúc “quân thù đương mạnh” và gặp phải muôn vàn khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn được bước chân và ý chí của Lê Lợi, ông vẫn không nguôi nỗi lòng thương dân và niềm khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và để rồi, dẫu trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi. Trọn hay: Đen đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo Chính nhờ chân lí, con đường ấy mà cuộc khởi nghĩa của ta đã từng ngày, từng ngày vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, khi tái hiện quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh của anh hùng Lê Lợi mà ông còn tái hiện rõ nét từng chặng đường trong cuộc kháng chiến ấy. Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực – “việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần”, thiếu thốn lương thực,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng. Để rồi, trong giai đoạn sau của cuộc chiến, quân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,… và tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp: Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn. Có thể nói, bằng tất cả lòng quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, khiến chúng thất bại thảm hại và khiếp sợ. Đồng thời, trong trận chiến ấy, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã đặt ra, bởi vậy nên khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Và có lẽ bởi vậy, chiến thắng của ta chính là sự chiến thắng của nhân nghĩa, của lòng nhân ái và tinh thần thượng võ. Cuối cùng, trên cơ sở luận đề chính nghĩa và thực tiễn của cuộc chiến đấu đoạn cuối của bài cáo đã lên tiếng tuyên bố nền hòa bình, độc lập của dân tộc. Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới (…) Xa gần bá cáo Ai nấy đều hay. Với giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc, lời tuyên bố độc lập được tuyên bố rộng rãi đến toàn thể mọi người. Lời tuyên bố ấy không chỉ thể hiện lòng tự hào dân tộc mà còn cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng. Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận cùng việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn biến đổi linh hoạt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam. Mẫu 3 Lời giải chi tiết: Hiện tượng văn, sử, triết bất phân là đặc trưng của nền văn học trung đại không chỉ Việt Nam mà còn là xu hướng chung của thế giới. Thế nên, tìm hiểu những tác phẩm văn học trung đại ta nhìn thấy từng dấu ấn lịch sử hiện ra rõ nét. Trong nhiều tác phẩm sử vẫn tìm thấy phong cách của văn chương và ngược lại trong văn chương vẫn mang đậm lối kể của sử và cách nhìn cuộc đời của triết. Cũng giống như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo đánh dấu một chặng đường lịch sử trọng đại của nước nhà. Tuy nhiên khi Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không nằm ở giai đoạn cả nước chuẩn bị kháng chiến mà là khi vua Lê đã đánh đuổi được ngoại xâm, giành lấy độc lập cho Đại Việt. Bình Ngô đại cáo được xem là bản tuyên ngôn thay lời Bình Định vương Lê Lợi tuyên cáo với toàn dân về chiến thắng vẻ vang trước quân Minh đồng thời cũng là khẳng định nền độc lập của dân tộc. Bình Ngô đại cáo ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Cuối năm 1427 khi đất nước đã sạch bóng quân thù đồng thời cũng là lúc hàng loạt những chính sách đối nội, đối ngoại được thực hiện nhằm khiến cho nhân dân trong nước và triều đại phương Bắc phải thừa nhận tính chất chính thống của vương triều mới. Đây chính là lúc triều đại mới cần có tiếng nói hợp pháp nhằm bố cáo với toàn dân và xác lập chủ quyền. Suốt mấy mươi năm chịu ách nô lệ của nhà Minh cùng với quá khứ Bắc thuộc cứ mãi ám ảnh day dứt trong tâm trí người Việt, lại thêm nhân dân ta mất lòng tin với triều đại trước đó nên chẳng còn mối quan hệ gắn bó với nhà nước phong kiến. Lúc này đây, nhiệm vụ quan trọng của Nguyễn Trãi là phải chuyển tải được niềm tin đối với đất nước, triều đại mới, niềm tự hào với truyền thống dân tộc. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi không dừng lại ở nhiệm vụ của bản tuyên ngôn độc lập mà còn là lời đanh thép khẳng định nhân quyền, chủ quyền. Cáo là thể văn nghị luận cổ, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả của một sự nghiệp để mọi người cùng biết. Cáo phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu. Bình Ngô đại cáo được viết theo bố cục của một bài cáo: nêu luận đề chính nghĩa, kể tội ác của giặc, tổng kết quá trình chinh phạt, tuyên cáo hòa bình, thành lập triều đại mới. Đại cáo không chỉ có nghĩa là một bài cáo có tầm vóc lớn, mang giá trị lịch sử cao mà Nguyễn Trãi còn ngầm so sánh đầy tự hào với các bản cáo mẫu mực của Trung Quốc “Thang cáo”, Vũ cáo”. Để hiểu rõ ý nghĩa nhan đề Bình Ngô đại cáo cần quan tâm đến hàm ý trong “bình Ngô”. “Ngô” ở đây thường được hiểu là chỉ chung có các triều đại phong kiến phương Bắc, Ngô còn gợi nỗi đau và sự căm phẫn của nhân dân ta về tội ác mà bọn Đông Ngô đã gây ra trong 1000 năm Bắc thuộc. Như vậy có thể tổng hợp lại “Bình Ngô đại cáo” là tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên quân xâm lược, công bố sự ra đời của triều đại mới, kỷ nguyên mới độc lập dân tộc. Bình Ngô đại cáo trước hết là bản tuyên ngôn về nhân quyền, dân quyền của đất nước. Ngay ở phần đầu tiên của bản cáo, Nguyễn Trãi đã đặc biệt chú ý đến việc xây dựng nên luận đề chính nghĩa. Luận đề này dựa trên mối quan hệ thống nhất giữa ba yếu tố: nhân nghĩa – dân – nước. Tư tưởng “nhân nghĩa” bắt nguồn từ Nho giáo đề cao mối quan hệ giữa người với người dựa trên lòng yêu thương con người và đạo lý làm người. Nguyễn Trãi kế thừa những tư tưởng tích cực của Nho giáo nhưng không đề cao vai trò người quân tử mà hướng đến nhân dân. Với ông, việc nhân nghĩa là việc làm đem đến lợi ích cho nhân dân, bảo vệ nhân dân. Góc nhìn tích cực này so với thời đại phong kiến thật đáng trân trọng. Điều này cũng mở ra những chuyển biến tích cực trong quan niệm về vai trò của nhân dân đối với đất nước. “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nghĩa quân trừ bạo tàn trước hết vì sự yên bình của nhân dân. Dựa vào dân là dựa vào chính nghĩa, có chính nghĩa chắc chắn sẽ tất thắng. Đây chính là tư tưởng chủ đạo trong giai đoạn kháng chiến chống quân Minh. Nguyễn Trãi đã rất khéo khi đem tư tưởng “yên dân” trong đoạn mở đầu làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm để tăng sức thuyết phục cho bài cáo. Đâu chỉ có những nhận thức sâu sắc về ý nghĩa lịch sử của nhân dân, Nguyễn Trãi còn đưa ra những quan niệm về tổ quốc dựa trên sự hợp nhất giữa các yếu tố: văn hiến, địa lý, phong tục, chính trị, nhân tài, truyền thống lịch sử. “Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương; Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có” Quan niệm về chủ quyền của một quốc gia, dân tộc đã được nhắc đến trước đó qua Nam quốc sơn hà. Tuy nhiên, giai đoạn trước chủ quyền quốc gia thường được tập trung thể hiện qua yếu tố lãnh thổ và các triều đại chính trị. Đến Nguyễn Trãi, quan niệm này được phát triển đầy đủ hơn vừa có sự thừa kế tư tưởng của triều đại Lý, Trần vừa có những nét chuyển biến mới lạ. Nguyễn Trãi đã xếp văn hiến “vốn xưng nền văn hiến đã lâu” vào vị trí đầu tiên khi nhắc đến sự toàn vẹn của một dân tộc. Ngoài yếu tố địa lý, chính trị được kế thừa, Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh phong tục tập quán và truyền thống lịch sử. So với lãnh thổ, chính trị thì bản sắc văn hoá của một dân tộc mới là yếu tố hàng đầu quyết định sự tồn vong của dân tộc ấy. Lịch sử đất nước đã chứng minh khi các triều đại phương Bắc xâm chiếm, chúng ta vẫn không bị chúng đồng hoá về tiếng nói, phong tục, tập quán vì thế mà chúng ta mới nắm giữ được chìa khoá chốn lao tù. Quan niệm về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi đã xây dựng nên luận đề chính nghĩa và phản ánh được quá trình trưởng thành của ý thức dân tộc. Khi có cái nhìn đúng đắn về các yếu tố làm nên tổ quốc thì mới có thể huy động được nguồn sức mạnh mà chiến đấu kẻ thù. Như vậy, có thể thấy ngay trong phần một của bản cáo trạng Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lý: Mọi hành động nhân nghĩa chân chính đều hướng đến mục đích yên dân, đem lại ấm no, hòa bình cho nhân dân. Đâu chỉ thế, lý do chính đáng để tiến hành chiến tranh không phải vì lợi ích của một giai cấp mà là lợi ích của toàn dân thông qua việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nền văn hiến đã được nhân dân xây dựng từ lâu đời. Bình Ngô đại cáo còn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh. Nhắc đến những tội ác mà kẻ thù gieo vào đời sống nhân dân khó mà dùng một vài hình ảnh để liệt kê hết. Vậy mà Nguyễn Trãi lại có khả năng chọn lọc những chi tiết cụ thể, sinh động lại nén chặt thông tin về những chứng cứ khốc liệt trong những năm tháng quân Minh đô hộ. Tội ác của chúng vừa tác động đến đời sống của nhân dân vừa làm cạn kiệt tài nguyên, thiên nhiên, núi sông phẫn nộ. “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế Gây thù kết oán trải mấy mươi năm Bại nhân nghĩa nát cả đất trời. Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.” Bao nhiêu kiếp người khổ sở bị đẩy vào bước đường cùng. Nghề canh cửi tan tác, phu phe nặng nề “Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa”. Bao nhiêu góa phụ rơi vào bể khổ khi người thân mình bị bắt đi “dòng lưng mò ngọc”, “đãi cát tìm vàng”. Cả cỏ cây, rừng núi cũng không được yên ổn khi bọn chúng vơ vét hết cho kỳ được “chốn chốn lưới giăng”, “nơi nơi cạm bẫy”. Hành động xấu xa của chúng khiến cho đất trời cũng không thể dung tha “bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Cái hay của Nguyễn Trãi là không chỉ liệt kê các sự việc mà còn kèm theo đó là lời bình để thể hiện thái độ lên án quyết liệt đối với tội ác của kẻ thù. Thay vì cố dồn nén nhiều sự kiện vào trong bài cáo, Nguyễn Trãi chọn cách tăng cường chất lượng phản ánh hiện thực bằng việc lựa chọn những chi tiết hàm súc. Ngọn lửa thiêu người trong đoạn cáo trạng này chính là chi tiết đắt giá có thể kể đến. “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” Ngọn lửa ấy chính là tội ác, là sức mạnh huỷ diệt con người, nó tượng trưng cho chiến tranh khốc liệt và thảm cảnh tàn bạo mà bàn tay giặc đô hộ gây ra. Lửa đã giết bao nhiêu mạng người, lửa thiêu đốt cả cơ đồ, phá huỷ chùa chiền, lăng tẩm, Ngọn lửa của sự bạo tàn, lòng tham vọng đã thiêu sống con đen, dân đỏ trong suốt hai thập kỷ. Hình ảnh tiếp theo phải kể đến là “nước Đông Hải” và “trúc Nam Sơn”. Tội ác của chúng nước biển mênh mông đến đâu cũng không rửa sạch, cả rừng trúc Nam Sơn rộng lớn cũng không thể ghi hết. “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!” Ở phần vạch trần tội ác của kẻ thù, Nguyễn Trãi đã dùng những chi tiết, hình ảnh vừa có tính bao quát vừa có giá trị hiện thực cùng với giọng văn thống thiết đau xót, phẫn uất đã nói rõ thái độ quyết liệt của tác giả trước những gì quân Minh gây ra chi nhân dân. Tập trung kể về tội ác kẻ thù cũng chính là tạo sự đối lập trong lý tưởng chính nghĩa của quân Lam Sơn. Trong thế trận này, giặc phi nghĩa, ta chính nghĩa và không còn nghi ngờ gì nữa, chính nghĩa ắt thắng hung tàn. Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trãi đã tái hiện không khí bão táp của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ở đó, hiện lên nổi bật vẫn là hình tượng người anh hùng Lê Lợi và bản anh hùng ca của thời đại. “Núi Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.” Người anh hùng áo vải, xuất thân từ tầng lớp bình thường nhưng lại trở thành hình tượng trung tâm bừng sáng. Đọc từng câu văn ta như nghe được tiếng lòng phẫn uất, nỗi trăn trở từ thời các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”..Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ban đầu gặp rất nhiều khó khăn vì Lê Lợi chỉ là một hào trưởng địa phương, sức ảnh hưởng không nhiều. Lại thêm sức mạnh quân đội của nhà Minh đã dập tắt hầu hết những cuộc khởi nghĩa cùng thời. Sức dân đã cạn, lòng tin cũng hao mòn. Vì thế mà lắm phen nghĩa quân rơi vào lao đao, bế tắc, thiếu cả lương thực, vũ khí, nhân tài, bị vây hãm nhiều ngày trên núi Chí Linh. “Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu, Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc” Và “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội.” Hoàn cảnh có khốn cùng đến một mất một còn thì người anh hùng đất Lam Sơn vẫn không sờn lòng, nản chí. Cốt cách của người hào trưởng nhân dân không sợ gian khổ, vươn lên trở ngại. “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn Ta gắng trí khắc phục gian nan.” Người lãnh đạo sáng suốt biết tìm trong bóng tối gian khó để nhận ra con đường ánh sáng, tìm được giải pháp có tính chất chiến đấu lâu dài. Và không giải pháp nào hơn là tinh thần đoàn kết của nhân dân. Chính sức mạnh này đã giúp nghĩa quân vượt qua giai đoạn đầu thiếu thốn mà ngày càng lớn mạnh. “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.” Đâu chỉ vận dụng sức mạnh quần chúng để đánh giặc, người lãnh đạo sáng suốt còn biết thông minh, sáng tạo để sử dụng chiến thuật hay khắc phục từng bước khó khăn. “Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.” Từ phẩm chất của người lãnh đạo Lam Sơn, Nguyễn Trãi muốn nói đến phẩm chất của toàn quân khởi nghĩa. Từ việc khắc hoạ tài năng của Lê Lợi, Nguyễn Trãi lại muốn hướng đến hình ảnh các vị tướng lĩnh và toàn thể quân đội. Ông không hề nhắc đến một cái tên riêng kể cả vị chủ soái, điều đó có thể giải thích vì nhà văn không muốn miêu tả những người anh hùng cá nhân mà muốn làm nổi bật tầm vóc, khí thế của đoàn quân Lam Sơn dựa trên sức mạnh đoàn kết không gì chia cắt được. Họ không phải là một người mà là một tập thể thống nhất “sĩ khí, quân thanh, sĩ tốt, bề tôi”.. Nguyễn Trãi cũng điểm qua những trận chiến có ý nghĩa quan trọng đối với chiến thắng sau cùng của quân Lam Sơn. Nhiều hình ảnh tượng trưng được sử dụng kết hợp với giọng điệu tăng tiến, dồn nén đầy tự hào. “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.” Hai trận Trà Lân và Bồ Đằng là hai trận đánh mở màn cho bước phản công mạnh mẽ của nghĩa quân. Cách miêu tả của nhà văn cho chúng ta liên tưởng đến bước đi của một cơn bão lớn khi mà mọi hiện tượng đã xuất hiện. Đến đoạn miêu tả cảnh viện binh của Liễu Thăng bị chặn đánh tơi bời ở Mã Yên, ta lại nghe được cả tiếng ầm ầm thác lũ, tiếng cuồng phong bão táp. “Nổi gió to trút hết lá khô Thông tổ kiến phá toang đê vỡ” Cơn bão giông đâu dừng lại ở đó khi mà sức mạnh quân sự của quân Lam Sơn ngày một tăng cường. Đất trời mù mịt, ngả nghiêng như trút hết căm hờn vào bọn xâm lăng. “Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ” Nguyễn Trãi không dùng tên riêng, không đặc biệt ghi công một vị tướng nào của nghĩa quân. Tuy nhiên khi kể đến sự thất bại thảm hại của quân Minh, nhà văn lại liệt kê hàng loạt những tên tuổi như thế lại càng tăng sự mỉa mai, chỉ đích danh cái xấu, cái ác. “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.”… “Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng” Chưa dừng lại ở đó, nhà văn đôi khi còn gọi cả tên tuổi, chức tước để châm biếm sâu cay. “Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.” Sự thất bại thảm hại của kẻ thù được Nguyễn Trãi hình dung bằng hai từ “máu” và “thây”. Một đoạn văn có đến ba lần cặp hình ảnh này xuất hiện chính là chứng tỏ cho kết cục hoàn toàn bại hoại của quân Minh. “Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.” “Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước” “Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.” Sự độc đáo của đoạn văn là khả năng dồn nén thời gian, bỏ qua các giai đoạn chuyển tiếp để những sự kiện nổi bật lần lượt xuất hiện với tần suất cao. Chính điều đó đã tạo cảm giác về mức độ tăng tiến của cuộc chiến. Càng về cuối, chiến thắng càng dồn dập không thể tính theo trận mà tính theo ngày, theo từng hồi trống. “Đánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông.” Có thể nói đoạn văn tổng kết những chiến công oanh liệt và sự thất bại của quân Minh được viết bằng giọng điệu biến hoá, linh hoạt, lúc ca ngợi, hào khí lúc mỉa mai, châm biếm, lúc lại trầm hùng, hào sảng. Đọc từng câu văn mà cứ ngỡ tấm lòng của Nguyễn Trãi tuôn trào ra đầu ngọn bút. Bình Ngô đại cáo kết thúc bằng bản tuyên ngôn khẳng định chủ quyền thống nhất dân tộc, mở ra kỷ nguyên hưng thịnh của vương triều hậu Lê. Mục đích của cuộc chiến chính nghĩa bao giờ cũng là sự yên ổn, hoà bình. Thế nên khi đã đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút của mình thể hiện niềm vui, niềm tự hào và tin tưởng của tương lai. Giọng điệu phấn chấn , lạc quan khiến người đọc liên tưởng đến khúc khải hoàn ca của một vị tướng lừng danh thời Trần. “Thái bình tu chí lực Vạn cổ thử giang san” (Trần Quang Khải) Dựa trên quy luật tất yếu của trời đất, bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, Nguyễn Trãi muốn chứng minh đất nước ta đã đến hồi đại thắng, rồi đây sẽ là giai đoạn thái bình, thịnh trị lâu dài. “Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh” Hình ảnh “một cỗ nhung y” chứa đựng hàm ý ngợi ca Lê Lợi. Một người lãnh đạo toàn tài hiếm có sẽ là một đấng minh quân sau này mở ra triều đại vững bền. Phần cuối của bản cáo giọng văn dàn trải, lời văn trịnh trọng đầy hưng phấn như một lời khẳng định đầy niềm tin tưởng. Cả Bình Ngô đại cáo xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước trong nền văn học thế kỷ XV nói riêng văn văn học học trung đại nói chung. Ngoài việc tổng kết luận đề về chính nghĩa, chiến thắng oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn, ca ngợi hình tượng người lãnh đạo Lê Lợi và sức mạnh đoàn kết của toàn quân, Bình Ngô đại cáo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của bản cáo trạng đanh thép về tội ác của kẻ thì và sự thất bại tất yếu của chúng. Chiến tranh vì chính nghĩa, đứng lên vì bảo vệ lợi ích của nhân dân, một tư tưởng tiến bộ của thời đại được khởi xướng từ nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Trãi, điều đó cũng chứng minh về sự phát triển vượt bậc của tư tưởng, niềm tự hào dân tộc, cái nhìn mang tính chất tương lai khi trao nhiệm vụ gánh vác đất nước cho toàn thể nhân dân. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là bản hùng văn thiên cổ cũng là một tác phẩm kiệt xuất cho sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi.
|