Soạn bài Luyện tập và vận dụng SGK Ngữ văn 12 tập 1 Kết nối tri thức

Có thể xếp bài thơ Bình đựng lệ vào loại thơ tượng trưng được không? Vì sao? Theo hiểu biết của bạn, hình ảnh “bình đựng lệ” có thể gợi nhớ đến những câu chuyện cổ nào?

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

1. Đọc Câu 1

Trả lời Câu 1 phần Đọc trang 160 SGK Văn 12 Kết nối tri thức

Có thể xếp bài thơ Bình đựng lệ vào loại thơ tượng trưng được không? Vì sao?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ bài thơ, tìm ra đặc trưng của thể loại bài thơ.

Lời giải chi tiết:

Cách 1

Có thể xếp vào loại thơ tượng trưng vì ngay từ nhan đề đã xuất hiện hình ảnh biểu tượng và hình ảnh này cũng chảy dài theo suốt bài thơ. Bài thơ thể hiện những cảm xúc, suy tư sâu sắc của thi nhân về cuộc sống, về tình yêu, đồng thời thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, tinh tế.

Xem thêm
Cách 2

- Có thể xếp bài thơ Bình đựng lệ của Chế Lan Viên vào loại thơ tượng trưng. Vì:

+ Sử dụng hình ảnh tượng trưng:

Bình đựng lệ: tượng trưng cho trái tim, tâm hồn của thi nhân.

Mùa thu: tượng trưng cho sự tàn úa, héo úa, chia ly.

Hoa lựu: tượng trưng cho tình yêu, đam mê.

Trăng: tượng trưng cho sự cô đơn, lạnh lẽo.

+ Nội dung thể hiện:

Thể hiện những cảm xúc, suy tư của thi nhân về cuộc sống, về tình yêu.

Bộc lộ tâm trạng cô đơn, buồn bã, thất vọng của thi nhân.

Thể hiện khát vọng yêu thương, hòa hợp với cuộc đời.

Xem thêm
Cách 2

1. Đọc Câu 2

Trả lời Câu 2 phần Đọc trang 160 SGK Văn 12 Kết nối tri thức

Theo hiểu biết của bạn, hình ảnh “bình đựng lệ” có thể gợi nhớ đến những câu chuyện cổ nào?

Phương pháp giải:

Chú ý đến những chi tiết tác giả miêu tả, bộc lộ cảm xúc về hình ảnh “bình đựng lệ”

Lời giải chi tiết:

* Hình ảnh "bình đựng lệ" trong bài thơ "Bình đựng lệ" của Chế Lan Viên có thể gợi nhớ đến một số câu chuyện cổ sau:

- Nàng tiên cá:

+ Nàng tiên cá đánh đổi giọng hát để có được đôi chân và tình yêu của chàng hoàng tử.

+ Nàng chịu đựng đau đớn tột cùng khi bước đi trên cạn, nhưng vì tình yêu, nàng chấp nhận hy sinh.

+ Nước mắt của nàng tiên cá tượng trưng cho những đau đớn, hy sinh và tình yêu mãnh liệt.

- Truyện Kiều:

+ Kiều phải trải qua nhiều biến cố, đau khổ trong cuộc đời.

+ Nước mắt của Kiều tượng trưng cho những nỗi buồn, niềm đau mà nàng phải chịu đựng.

+ Kiều là một biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó, mang nhiều phẩm chất tốt đẹp.

- Tấm Cám:

+ Cám hãm hại Tấm, khiến Tấm phải chịu nhiều oan trái.

+ Nước mắt của Tấm tượng trưng cho những uất hận, tủi nhục mà nàng phải trải qua.

+ Cuối cùng, Tấm được đền đáp xứng đáng, cái ác bị trừng trị.

1. Đọc Câu 3

Trả lời Câu 3 phần Đọc trang 160 SGK Văn 12 Kết nối tri thức

“Bình đựng lệ” là biểu tượng của cái gì? Căn cứ vào đâu để xác định những hàm nghĩa của biểu tượng này?

Phương pháp giải:

Tìm ra những chi tiết miêu tả về hình ảnh này, tìm ra các căn cứ mà tác giả đưa ra.

Lời giải chi tiết:

Cách 1

* "Bình đựng lệ" là biểu tượng của:

- Nỗi buồn, niềm đau:

+ "Bình" là vật dụng để đựng nước, "lệ" là nước mắt.

+ "Bình đựng lệ" là hình ảnh ẩn dụ cho trái tim, tâm hồn chứa đầy những nỗi buồn, niềm đau.

- Tình yêu thương, khát vọng hòa hợp:

+ "Bình đựng lệ" còn là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng yêu thương, hòa hợp với cuộc đời.

+ Thi nhân khao khát được chia sẻ những cảm xúc, suy tư của mình với mọi người.

- Tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, tinh tế:

+ Ông luôn trăn trở về cuộc sống, về con người, và về tình yêu.

- Căn cứ để xác định những hàm nghĩa của biểu tượng "bình đựng lệ":

-  Nội dung thể hiện: 

+ Bài thơ thể hiện những cảm xúc, suy tư của thi nhân về cuộc sống, về tình yêu.

+ Bộc lộ tâm trạng cô đơn, buồn bã, thất vọng của thi nhân.

+ Thể hiện khát vọng yêu thương, hòa hợp với cuộc đời.

- Bối cảnh sáng tác: 

+ Bài thơ được sáng tác trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

+ Bối cảnh xã hội lúc bấy giờ đầy biến động, con người phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách.

Xem thêm
Cách 2
Cách 3

- “Bình đựng lệ” tượng trưng cho nỗi đau

 - Để xác định được hàm nghĩa biểu tượng này, ta dựa vào tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, tinh tế, luôn trăn trở về cuộc sống, về con người, và về tình yêu.

+ Nhân vật trữ tình: tôi - có thể là một người lính: “xứ lắm bom” => viết từ những trải nghiệm của bản thân về những nỗi bất hạnh, đau khổ => thời gian trôi qua tưởng đã trơ lì vậy mà “vẫn bàng hoàng”

=> Nỗi đau khổ luôn tồn tại song song với sự tồn tại của con người.

-  Bình đựng lệ là biểu tượng của:

+ hình ảnh ẩn dụ cho trái tim, tâm hồn chứa đầy những nỗi buồn, niềm đau.

+ tượng trưng cho khát vọng yêu thương, hòa hợp với cuộc đời.

 - Để xác định được hàm nghĩa biểu tượng này, ta dựa vào tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, tinh tế, luôn trăn trở về cuộc sống, về con người, và về tình yêu.

Xem thêm
Cách 2
Cách 3

1. Đọc Câu 4

Trả lời Câu 4 phần Đọc trang 160 SGK Văn 12 Kết nối tri thức

Tìm những câu thơ thể hiện nhận thức của tác giả về sự tồn tại vĩnh cửu của “bình đựng lệ”. Tác giả phát biểu nhận thức này dựa trên những trải nghiệm cá nhân nào?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ bài thơ, vận dụng khả năng đọc hiểu văn bản

Lời giải chi tiết:

Cách 1

- Những câu thơ sau: 

“Chiếc bình tuột khỏi tay nhân loại/ Lại về trở lại” ; “Ờ, Thế mà chẳng có gì mất hết/ Chiếc bình kia vẫn còn”

- Trải nghiệm cá nhân:

Những trải nghiệm từ cuộc sống, những nỗi đau vẫn hằn in từng này khiến bình đựng lệ vẫn tồn tại vĩnh cửu. Dòng chảy thời gian có thể cuốn trôi đi bao nhiêu, nhưng những vết thương lòng vẫn còn đó, hằn sâu trong tâm hồn mỗi con người. Nỗi đau ấy như những giọt lệ đắng cay, chất chứa bao nhiêu uất hận, tủi nhục, khiến cho "bình đựng lệ" mãi mãi không thể cạn.

Xem thêm
Cách 2

- Những câu thơ thể hiện nhận thức của tác giả về sự tồn tại vĩnh cửu của bình đựng lệ:

Chiếc bình tuột khỏi tay nhân loại

Lại về trở lại

Ờ, Thế mà chẳng có gì mất hết

 Chiếc bình kia vẫn còn

- Tác giả phát biểu nhận thức này dựa trên:

+ Tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, tinh tế. Ông luôn trăn trở về cuộc sống, về con người, và về tình yêu.

+ Bối cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Bối cảnh xã hội lúc bấy giờ đầy biến động, con người phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách.

Xem thêm
Cách 2

1. Đọc Câu 5

Trả lời Câu 5 phần Đọc trang 160 SGK Văn 12 Kết nối tri thức

Thủ pháp đối lập đã được tác giả vận dụng như thế nào và đạt hiệu quả nghệ thuật gì?

Phương pháp giải:

Vận dụng tri thức Ngữ văn về thủ pháp đối lập.

Lời giải chi tiết:

Cách 1

Những thủ pháp đối lập được tác giả sử dụng:

+ Đối lập về hình ảnh: sáng - tối, cao - thấp, rộng - hẹp, xa - gần,...

+ Đối lập về cảm xúc: vui - buồn, yêu - ghét, hy vọng - tuyệt vọng,...

+ Đối lập về ý tưởng: sống - chết, hiện tại - quá khứ, thực tại - ảo mộng,...

Nhờ sử dụng biện pháp đối lập ấy, ta thấy được sự trường tồn bất tử của bình đựng lệ ; như một vòng tuần hoàn mãi mãi không bao giờ kết thúc.

Xem thêm
Cách 2

- Tác giả đã vận dụng thủ pháp đối lập:

+ Đối lập về hình ảnh: sáng - tối, cao - thấp, rộng - hẹp, xa - gần,...

+ Đối lập về cảm xúc: vui - buồn, yêu - ghét, hy vọng - tuyệt vọng,...

+ Đối lập về ý tưởng: sống - chết, hiện tại - quá khứ, thực tại - ảo mộng,...

- Hiệu quả nghệ thuật:

+ Làm nổi bật những ý tưởng, quan điểm của tác giả.

+Thể hiện những cảm xúc mãnh liệt, dồn nén.

+ Thu hút sự chú ý của người đọc, khơi gợi suy tư.

+ Làm cho tứ thơ đa chiều, sâu sắc, thể hiện nhiều khía cạnh của cuộc sống.

Xem thêm
Cách 2

1. Đọc Câu 6

Trả lời Câu 6 phần Đọc trang 160 SGK Văn 12 Kết nối tri thức

Nêu nhận xét về màu sắc nghị luận của bài thơ thông qua một số dấu hiệu hình thức mang tính đặc trưng.

Phương pháp giải:

Vận dụng khả năng phân tích, vận dụng tri thức đọc hiểu văn bản.

Lời giải chi tiết:

Cách 1

- Về mặt hình thức, tác giả sử dụng thể thơ tự do để bài thơ như một câu chuyện, lời tâm sự của chính mình

- Về mặt nghệ thuật, tác giả sử dụng các cặp từ đối lập; các từ nghĩ biểu thị cảm xúc đặc biệt như Ô!, Ờ để gợi lên cảm xúc mãnh liệt từ người đọc

- Sử dụng các phép tu từ như ẩn dụ, so sánh

- Nhận xét:

+ Màu sắc nghị luận được sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo: Chế Lan Viên không sử dụng biện pháp nghị luận một cách máy móc, rập khuôn mà kết hợp nhuần nhuyễn với các biện pháp tu từ khác như ẩn dụ, biểu tượng, so sánh,... để tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao.

+ Màu sắc nghị luận góp phần thể hiện nội dung tư tưởng sâu sắc của bài thơ: Nhờ sử dụng biện pháp nghị luận, Chế Lan Viên đã thể hiện được những suy ngẫm sâu sắc của mình về cuộc sống và con người.

Xem thêm
Cách 2

- Nhận xét về màu sắc nghị luận trong bài thơ Bình đựng lệ - Chế Lan Viên:

+ Giọng điệu thay đổi theo từng đoạn thơ: Giọng điệu buồn bã, xót xa → Giọng điệu phẫn uất, căm phẫn → Giọng điệu bi tráng, hào hùng.

+ Hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng: bình đựng lệ, nước mắt, máu, lửa,...

+ Hình ảnh tương phản: bình đựng lệ - bầu trời, nước mắt - lửa,...

+ Sử dụng nhiều từ ngữ có tính biểu cảm cao: chan hòa, thấm ướt, rực cháy,...

+ Sử dụng nhiều phép tu từ: ẩn dụ, so sánh, nhân hóa,...

Xem thêm
Cách 2

1. Đọc Câu 7

Trả lời Câu 7 phần Đọc trang 160 SGK Văn 12 Kết nối tri thức

Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ thái độ đồng cảm hay không đồng cảm của bạn đối với nỗi niềm và nhận thức của tác giả được bộc lộ qua bài thơ.

Phương pháp giải:

Vận dụng khả năng viết.

Lời giải chi tiết:

Đọc "Bình đựng lệ", ta cảm nhận được nỗi niềm bi tráng và nhận thức sâu sắc của Chế Lan Viên về cuộc đời con người. Nỗi niềm ấy được thể hiện qua hình ảnh "bình đựng lệ" - biểu tượng cho những đau khổ, bất hạnh của con người. Nước mắt tuôn rơi không ngừng, thấm ướt cả bầu trời, hòa vào đại dương, thể hiện nỗi đau vô bờ bến của kiếp nhân sinh. Tác giả nhận thức rằng cuộc đời con người đầy rẫy những bất công, oan trái, con người phải chịu đựng nhiều đắng cay, tủi nhục. Là một người trẻ tuổi, tôi đồng cảm với nỗi niềm bi tráng của tác giả. Cuộc sống vốn không hoàn hảo, con người phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, tôi không hoàn toàn đồng ý với nhận thức của tác giả về cuộc đời chỉ toàn nước mắt. Cuộc sống cũng có những niềm vui, niềm hạnh phúc, có những con người tốt bụng, yêu thương nhau. Chúng ta có thể tìm thấy niềm vui trong những điều bình dị, trong tình yêu thương của gia đình, bạn bè, trong những thành quả đạt được sau nỗ lực. Tóm lại, tôi đồng cảm với nỗi niềm bi tráng của tác giả nhưng tin tưởng rằng cuộc đời vẫn có những điều tốt đẹp. 

Xem thêm
Cách 2
Cách 3

Đọc bài thơ "Bình đựng lệ" của Chế Lan Viên, ta không thể không cảm nhận được những nỗi niềm bi tráng và sâu sắc về cuộc sống mà tác giả muốn truyền đạt. Hình ảnh "bình đựng lệ" được sử dụng như một biểu tượng đầy ý nghĩa, tượng trưng cho những đau khổ, nước mắt và khó khăn của con người. Tác giả thấu hiểu rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng công bằng, con người phải đối diện với nhiều gian khổ, đau thương và nỗi đau. Là một người trẻ, tôi cảm thông với tình cảm và suy tư của tác giả về sự đau khổ và bất lực trong cuộc sống. Tuy nhiên, dù cuộc sống có thể gặp phải những gian khổ và thách thức, tôi không hoàn toàn đồng ý với quan điểm rằng cuộc đời chỉ là nước mắt. Cuộc sống cũng chứa đựng những niềm vui và hạnh phúc, có những khoảnh khắc tươi đẹp và ý nghĩa. Tóm lại, bài thơ "Bình đựng lệ" không chỉ là một tác phẩm thơ cao về nghệ thuật mà còn là một lời nhắc nhở về cuộc sống, về sự đau khổ và hạnh phúc, về sự bất lực và hy vọng. Chúng ta cần giữ niềm tin vào giá trị tốt đẹp của cuộc sống và con người, và biết trân trọng những khoảnh khắc tươi đẹp và ý nghĩa trong cuộc sống.

Đồng hành cùng Chế Lan Viên trong "Bình đựng lệ", ta chìm đắm trong dòng chảy cảm xúc mãnh liệt, nơi những giọt lệ đắng cay như những minh chứng cho những vết thương lòng dai dẳng, không thể phai mờ theo thời gian. Nỗi đau như những bình đựng lệ mãi mãi không biến mất, khơi gợi trong chúng ta sự đồng cảm sâu sắc và những suy ngẫm về bản chất của nỗi đau trong cuộc sống. Nỗi đau như những "bình đựng lệ" - hình ảnh ẩn dụ đầy sức gợi, ẩn chứa triết lý về sự tồn tại vĩnh cửu của những vết thương lòng. Con người trong cuộc sống, không ai có thể tránh khỏi những thăng trầm, thử thách, những mất mát và tổn thương. Nỗi đau ấy như những giọt lệ âm thầm chảy, len lỏi vào tâm hồn, hằn sâu thành những vết sẹo khó phai. Nó là minh chứng cho những trải nghiệm khắc nghiệt, những mất mát to lớn, những tổn thương sâu sắc. Con người giấu diếm, gói ghém nỗi đau thành những chiếc bình đựng lệ rời ném ra biển khơi. Như cách con người muốn chạy trốn nỗi đau, hoặc khiến nó trở ra biển nhằm trốn tránh hiện thực phũ phàng.

Xem thêm
Cách 2
Cách 3

2. Viết

Trả lời Câu hỏi phần Viết trang 160 SGK Văn 12 Kết nối tri thức

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài hoặc cùng nói về một loại nhân vật.

Phương pháp giải:

Dựa vào kiến thức đã học và kĩ năng viết đoạn văn

Lời giải chi tiết:

Cả hai tác phẩm "Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên" và truyện cổ tích "Thạch Sanh" đều sử dụng yếu tố kì ảo, và điều này tạo ra nhiều điểm tương đồng giữa chúng.

Trước hết, trong cả hai tác phẩm Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên và truyện cổ tích Thạch Sanh đều xuất hiện những nhân vật kì ảo, không có thật. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, hình ảnh các nhân vật kì ảo được miêu tả vô cùng chi tiết, ẩn giấu những ý nghĩa như hồn ma tướng giặc Bách hộ họ Thôi là tên tướng bại trận của Bắc Triều, cái hồn bơ vơ ở Nam Triều, tranh miếu chiếm đền Thổ Công. Đây là hiện thân của cái ác, lừa lọc, giả dối. Hay hình ảnh nhân vật Thổ Công giữ chức Ngực sự đại phu từ thời Lý Nam Đế, chết vì cần vương.. Diêm Vương là người đứng đầu Minh ti, trực tiếp phán xử vụ án giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc. Đây đều là những nhân vật kì ảo, không có thực, góp phần thể hiện cốt truyện. Còn trong truyện cổ tích Thạch Sanh, cũng có những nhân vật không có thực, chỉ tồn tại trong thế giới cổ tích như: Ngọc Hoàng, thái tử, chằn tinh.. , đồ vật thần kì như niêu cơm thần ăn mãi không hết, tiếng đàn giúp cho Thạch Sanh được giải oan. Tiếp đó, sự tương đồng còn được thể hiện trong mô típ của cả hai tác phẩm: vong hồn vẫn còn tồn tại sau khi chết, trong thế giới thần linh có sự phân chia Thiện- Ác… Đây là mô típ với những tình tiết khá quen thuộc xuất hiện trong nền văn học Việt Nam từ thể loại truyện cổ tích thần kì tới truyện truyền kì.

Mặc dù vậy, yếu tố kì ảo được sử dụng có những điểm khác biệt nhất định. Đầu tiên, sự xuất hiện của nhân vật chính trong cả hai tác phẩm: Truyện Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên với nhân vật chính là Ngô Tử Văn, được tác giả giới thiệu vô cùng cụ thể: tên, nơi sinh gắn với những địa điểm có thật “huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang”. Truyện cổ tích Thạch Sanh, nhân vật chính Thạch Sanh có nguồn gốc xuất thân kì ảo: Là thái tử do Ngọc hoàng cử xuống đầu thai làm con của hai vợ chồng già nghèo khó nhưng tốt bụng luôn giúp đỡ mọi người…Tiếp đó, sự khác nhau được thể hiện trong kết thúc truyện: Nếu như trong Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên, Tử Văn trở về, nhận chức phán sự đền Tản Viên thì ở truyện cổ tích Thạch Sanh, Thạch Sanh được kết duyên với công chúa và được truyền lại ngôn vua. Hơn thế nữa, về giá trị của tác phẩm được thể hiện qua mô típ chuyện cũng có nhiều điểm riêng biệt: Truyện cổ tích Thạch Sanh đã đề cao triết lý sống: “ ở hiền gặp lành”, kẻ ác phải chịu báo ứng còn trong Chức phán sự đền Tản Viên đề cao sự cứng cỏi, can đảm của kẻ sĩ, đấu tranh tìm sự công bằng không phải cho mình mà cho người yếu thế.

Qua sự phân tích, đánh giá giữa những điểm tương đồng và khác biệt, ta có thể thấy yếu tố kì ảo trong thể loại truyền kì là sự kế tục của thể loại văn học dân gian: Sự xuất hiện của những nhân vật kì ảo không có thực hay là mô típ truyện có những chi tiết hoang đường, huyền ảo như: người chết sống lại, thế giới thần linh cũng phân chia thiện ác… Dòng truyện kì ảo trung đại, dù vẫn còn mang bóng dáng của văn học dân gian, nhưng đây là những sáng tác đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, gắn liền với sự bừng ngộ, sự ý thức của con người đối với hiện thực. Cảm hứng của Nguyễn Dữ khi sáng tác Truyền kì mạn lục là lấy cái “ kì” để nói cái “ thực”.. Vì lẽ đó, yếu tố kì ảo được sử dụng như một phương thức kể chuyện khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động. Ngoài ra, yếu tố kì ảo và yếu tố hiện thực đan xen vào nhau, cùng tồn tại để bộ lộ tư tưởng của tác giả. Điều này khác với truyền cổ tích Thạch Sanh khi mà yếu tố kì ảo có vai trò to lớn, không thể thiếu trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột: chiếc đàn thần, niêu cơm của Thạch Sanh….

3. Nói và nghe

Trả lời Câu hỏi phần Nói và nghe trang 160 SGK Văn 12 Kết nối tri thức

Nội dung 1: Thuyết trình về một tác phẩm truyện có cách tiếp cận và thể hiện mới mẻ đối với đời sống, khát vọng của tuổi 20.

Phương pháp giải:

Dựa vào kiến thức đã học và kĩ năng phần thực hành Nói và nghe

Lời giải chi tiết:

Thuyết trình: "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" - Nguyễn Nhật Ánh

Nếu bạn từng trải qua những kỷ niệm ngọt ngào của tuổi thơ, những ngày hè êm đềm bên những trang sách của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, hoặc từng lớn lên trong những làng quê yên bình của Việt Nam, thì chắc chắn bạn không thể bỏ qua cuốn sách "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" - một tác phẩm đã được vinh danh bằng giải thưởng văn học ASEAN vào năm 2010 của Nguyễn Nhật Ánh. Cuốn sách đã gây ra một làn sóng mới khi được đạo diễn Victor Vũ chuyển thể thành bộ phim với tựa đề vẫn giữ nguyên.

Nguyễn Nhật Ánh, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955, là người con của thôn An Mỹ, xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông là một nhà văn nổi tiếng tại Việt Nam, chuyên viết về thế giới của tuổi mới lớn. Ông được biết đến với biệt danh "ông hoàng của văn học trẻ thơ". Mặc dù trào lưu văn học nước ngoài ngày càng được giới trẻ quan tâm, nhưng những tác phẩm về tuổi thơ của ông vẫn giữ được sức hút đặc biệt đối với độc giả. Điều này là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của văn học Việt Nam.

"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" là một tiểu thuyết dành cho thanh thiếu niên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Cuốn sách được phát hành lần đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 9/12/2010. Đây là một trong những tác phẩm dài của ông, ra đời sau "Đảo mộng mơ" và "Lá nằm trong lá". "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" là một trong những cuốn sách bán chạy nhất tại Việt Nam từ năm 2010 đến nay, với tổng số bản in lên đến hơn 20.000 bản. Câu chuyện kể về cuộc sống hàng ngày và tâm trạng của Thiều, một cậu bé 13 tuổi sống ở một vùng quê nghèo. Thiều có một người em trai tên là Tường, một cậu bé đáng yêu, hiền lành và rộng lượng. Trái ngược với Tường, Thiều là một người hướng ngoại, khá tinh quái, nhưng thực sự rất quan tâm và hào hiệp. Câu chuyện cũng mô tả mối quan hệ giữa hai anh em và cộng đồng người dân trong ngôi làng, bao gồm cả gia đình và bạn bè của họ. Thiều nhận ra mình có tình cảm với Mận, một cô bé xinh xắn hơn cậu một tuổi, và học chung lớp với cậu. Một biến cố xảy ra khi nhà Mận bốc cháy, gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận và đưa cô bé về sống chung với gia đình. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận khiến Thiều cảm thấy ghen tỵ. Mùa lũ đến, làng quê bị ngập lụt, gây ra nhiều thiệt hại như đói kém và mất mùa. Trong khi đó, sự ghen tức và hẹp hòi trong Thiều khiến em trai của cậu bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Một ngày, Tường kể cho Thiều nghe một câu chuyện về một nàng công chúa, là nguồn động viên giúp Tường hồi phục. Công chúa đó thực chất là Nhi, con gái của một người dân trong làng, có vấn đề về thần kinh và cho rằng mình là công chúa. Sự quan tâm của Tường đã giúp Nhi tìm lại sức mạnh và sự tự tin của mình, khiến cô bé trở lại bình thường.

Đây là câu chuyện cổ tích về tuổi thơ, tình ạnh em, về tình bạn giữa cuộc sống xô bồ, vội vã này. Nó giống như những bông hoa vàng trên bãi cỏ xanh rộng lớn để rồi khi gấp trang sách lại, ta khẽ mỉm cười, chợt nhận ra có cái gì đó nảy nở trong lòng. Đây là lần đầu tiên ông đưa ra nhân vật phản diện vào tác phẩm của mình . Sự đố kỵ, hung hang của Sơn khi cố giành bé Mận từ tay Thiều. Bé Nhi chính là yếu tố làm cho câu chuyện liền mạch, tình cảm của các cô-cậu bé cũng gắn bó hơn bao giờ. Đối với những độc giả trung thành của nhà văn thì đây là tác phẩm có nét độc đáo so với các tác phẩm trước. Nguyễn Nhật Ánh trong một lần trả lời phỏng vấn đã chia sẻ : “Tuổi thơ của tôi là cả một thế giới đầy ám ảnh, tôi luôn luôn bắt gặp mình thổn thức khi nhớ về những ngày thơ ấu. Khi ấy là khi tôi nhận ra mình đã ở quá xa sân ga tuổi thơ và tôi viết những cuốn sách để kéo chúng lại gần.”. Cuốn sách“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” không chỉ là cuốn sách chỉ để đọc một lần, thi thoảng chúng ta mở vài trang rồi gấp lại để khiến tâm hồn thêm chút thư thái, thảnh thơi giữa cuộc sống vội vã. Trong tác phẩm “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” của Nhật Ánh cũng viết rằng: “ Cuốn sách này không dành cho trẻ em nhưng viết cho những ai từng là trẻ em.”. Và ở cuốn sách “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” cũng vậy, cuốn sách không chỉ dành cho các em thiếu nhi mà dành cho ai từng có một tuổi thơ.

Group Ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí

close