Phân tích 20 câu đầu bài thơ Việt Bắc

Đoạn thơ là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến.

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Đề bài: Phân tích hai mươi câu đầu bài thơ Việt Bắc - Tố Hữu

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Giới thiệu đoạn trích

2. Thân bài

- Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác

- Giới thiệu vị trí đoạn trích

* Phân tích:

- Tám câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến bịn rịn trong buổi chia tay:

+ Bốn câu trên, sử dụng điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” là lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.

+ Cách xưng hô “mình - ta” như lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau khiến cuộc chia tay trở nên thân mật, giản dị. Cách xưng hô còn gợi nhớ đến những câu đối đáp trong điệu hát giao duyên khiến những câu thơ nói về cách mạng không khô khan mà trở nên đằm thắm, sâu lắng.

+ Bốn câu thơ tiếp là nỗi lòng lưu luyến của cả người ở lại và ra đi thể hiện qua những từ ngữ diễn tả tâm trạng trực tiếp: “da diết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”; không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi: “áo chàm”, “cầm tay nhau”.

- Mười hai câu tiếp theo, với việc sử dụng điệp từ “nhớ”, là lời nhắn nhủ dưới hình thức câu hỏi:

+ Nhớ đến thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc trong những ngày kháng chiến: "mưa nguồn", "suối lũ", "mây" mù, "trám bùi", "măng mai".

+ Nhớ đến những ân tình trong khó khăn gian khổ: “miếng cơm chấm muối” nhưng vẫn “đậm đà lòng son”.

+ Nhớ đến quãng thời gian hoạt động cách mạng: kháng Nhật, Việt Minh, Tân Trào, Hồng Thái, ...

+ Đại từ xưng hô “mình” thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa kẻ ở, người đi. Nó giống như cách xưng hô tâm tình, thủ thỉ chân thành.

3. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

Bài mẫu

Bài tham khảo số 1

     Nhắc đến thơ ca Cách mạng, không thể không nhắc đến cái tên Tố Hữu. Ông như một ngọn đuốc rực rỡ, sáng chói trong bầu trời thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc chính là một trong những bài thơ gắn với tên tuổi của Tố Hữu. Cả bài thơ như một khúc nhạc tâm tình, nhẹ nhàng, mộc mạc mà sâu lắng về tình cảm nhân dân - chiến sĩ. Trong đó, hai mươi câu thơ đầu như một khúc dạo tình tứ, đưa con người trở về với những kỉ niệm không thể nào quên.

     Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

     Các từ xưng hô “mình" - "ta” mộc mạc, gần gũi gợi liên tưởng ca dao: “Mình về ta chẳng cho về" - "Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”. “Mười lăm năm” là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều, "mười lăm năm' bằng thời gian Kim — Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau (Những là rày ước mai ao - Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm xúc đậm đà chất dân gian, đậm đà chất Kiều. Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha. Việt Bắc hỏi người về: “Mình về mình có nhớ không - Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc - cội nguồn cách mạng.

     Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biểt nói gì hôm nay.

     "Bâng khuâng”, “bồn chồn” là hai từ láv gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lý tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong... lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả.

     “Áo chàm đưa buổi phân ly” là một hoán dụ. Màu "áo chàm", màu áo xanh đen là đặc trưng của người miền núi Việt Bắc. Tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể "áo chàm", chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước.

     Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gi hôm nay...” đầy tính chất biểu cảm - không phải không có điều để giãi bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói nên không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng...

     Mười hai câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc:

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hát hiu lau xám, đậm đà lòng son

Minh về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.

     Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại mang nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, là lời nhắc nhớ. Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến cùa người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gửi lại niềm thương theo cách:

Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

     Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn.

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

     “Miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. Và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước đè nặng trên vai dân tộc ta.

     Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt:

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

     Hình ảnh ‘Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng - “Trám rụng, măng già” không ai thu hái. Nỗi bùi ngùi như thúc vào lòng kẻ ở lại.

     Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kì “kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng.

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.

     Đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao, dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa thủy chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.

Xem bài tham khảo khác tại đây:

Bài tham khảo số 2

 

HocTot.Nam.Name.Vn

Group Ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí

close